
Một người phụ nữ và một đứa trẻ đi giữa đống đổ nát ở trại tị nạn Nuseirat ở trung tâm Dải Gaza, ngày 9 tháng 6 năm 2024, sau các cuộc tấn công của Israel vào khu vực, nơi các con tin Israel được giải cứu, trong bối cảnh xung đột Israel-Hamas (Ảnh: OSV News/Abed Khaled, Reuters)
Trong cuộc phỏng vấn độc quyền này, Đức Hồng Y Robert W. McElroy thảo luận về các vấn đề liên quan đến cuộc chiến đang diễn ra ở Gaza với phóng viên của tờ America tại Vatican, Gerard O’Connell. Đức Hồng Y McElroy đặc biệt nói về cuộc tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 của Hamas và việc Israel tiến hành cuộc chiến ở Gaza đã làm phân cực xã hội ở Hoa Kỳ như thế nào, thay đổi thái độ và làm nảy sinh chủ nghĩa bài Do Thái và bài Hồi giáo. Đức Hồng Y McElroy hy vọng việc đánh giá lại chính sách đối ngoại hiện tại của Hoa Kỳ ở Trung Đông có thể dẫn đến việc giải quyết sự bất công nghiêm trọng đối với người Palestine do việc Israel chiếm đóng các lãnh thổ của họ mà theo ngài, đang biến thành thuộc địa.
Đức Hồng Y McElroy tin rằng cộng đồng Công giáo tại Hoa Kỳ và các Giám mục Hoa Kỳ “nên là những người ủng hộ mạnh mẽ hơn” lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc ngừng bắn ngay lập tức, trao trả tất cả các con tin và cung cấp hỗ trợ nhân đạo “mà không có trở ngại và rào cản” tới 2,3 triệu người Palestine đang sống ở Gaza trong tình trạng bị bao vây.
Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn được thực hiện qua email vào cuối tuần trước trước khi Israel giải thoát 4 con tin khỏi trại tị nạn ở Gaza trong một chiến dịch khiến khoảng 274 người Palestine thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương. Văn bản đã được chỉnh sửa về độ dài và sự rõ ràng.
Cuộc tấn công của Hamas vào Israel và cuộc chiến của Israel ở Gaza dường như đã gây ra sự phân cực xã hội ở Hoa Kỳ cũng như trên toàn thế giới, hơn bất kỳ cuộc chiến nào khác trong thế kỷ 21. Mặc dù có một làn song của sự thương cảm rộng rãi dành cho Israel ngay sau cuộc tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10, thì thái độ đối với Israel dường như đã thay đổi đáng kể trên toàn thế giới, bao gồm cả nhiều người trẻ ở Hoa Kỳ, vì cách Israel tiến hành cuộc chiến ở nước này. Gaza, nơi 47% trong số 2,3 triệu dân của khu vực này dưới 18 tuổi. Với tư cách là một nhà lãnh đạo Kitô giáo, ngài nhận thấy điều này như thế nào?
Tôi thực sự nghĩ rằng đã có một sự thay đổi lớn ở Hoa Kỳ trong thái độ đối với Israel và người dân Palestine. Sự đồng thuận mạnh mẽ ủng hộ một Israel tự do và an toàn với tư cách là quê hương đối với người Do Thái tiếp tục tồn tại và quyết định chính sách công của Mỹ về các vấn đề liên quan đến Trung Đông. Nhưng bên cạnh sự đồng thuận này, còn có một nhận thức ngày càng rộng rãi rằng cách Israel đối xử với người Palestine, đặc biệt là trong cuộc vây hãm Gaza khiến hơn 35.000 người thiệt mạng, tạo thành một sự bất công sâu sắc, điều mà cả chính sách của Mỹ lẫn thế giới đều không nên tán thành.
Phản ứng của Mỹ trước hành động tàn bạo do Hamas gây ra đối với người dân Israel vào ngày 7 tháng 10 phản ánh chính đáng sự vô nhân đạo hoàn toàn của những cuộc tấn công này, bao gồm hơn 1.000 cái chết của người Do Thái và vụ bắt cóc khủng khiếp đàn ông và phụ nữ Do Thái để dùng làm con tin. Phản ứng này được khuếch đại bởi ký ức về sự man rợ đặc biệt của Holocaust và sự đàn áp mang tính lịch sử đối với các cộng đồng Do Thái trên khắp thế giới, thường là bởi các nền văn hóa Kitô giáo.
Sự thay đổi trong quan điểm của Mỹ đối với Trung Đông, đặc biệt là trong giới trẻ, xuất phát từ những tổn thất to lớn mà Israel đã trực tiếp gây ra cho người dân Gaza, và thông qua việc bóp nghẹt cơ sở hạ tầng và các chương trình viện trợ của Gaza, đã dẫn đến tình trạng thiếu lương thực và đói khát trầm trọng, hàng trăm nghìn thường dân phải rời bỏ nhà cửa và đặc biệt là sự đau khổ khủng khiếp của trẻ em ở Gaza.
Với tư cách là một nhà lãnh đạo tôn giáo, tôi tin rằng cả việc phản đối lẫn lên án hoàn toàn Hamas về các cuộc tấn công vào tháng 10 cũng như việc lên án Israel về cách thức không thể chấp nhận được về mặt đạo đức và hoàn toàn không tương xứng khi họ tiến hành cuộc chiến ở Gaza đều hoàn toàn phù hợp với Giáo huấn Công giáo và luật quôc tế.
Mọi cuộc chiến tranh đều mang lại sự hủy diệt và quá trình phi nhân tính hóa người khác, không coi người khác là con người, bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi như chính mình. Tuy nhiên, dưới con mắt của nhiều nhà quan sát, những hành động tàn bạo và tội ác chống lại loài người do Hamas gây ra trong cuộc tấn công vào miền nam Israel vào ngày 7 tháng 10 và bởi Israel trong cuộc chiến ở Gaza đã thể hiện một sự coi thường hoàn toàn không chỉ đối với luật nhân đạo quốc tế và nhân quyền mà còn đối với nhân loại cơ bản – và việc giết hại rất nhiều trẻ em. Với tư cách là người lãnh đạo Giáo hội, ngài nói gì về tất cả những điều này?
Chính sự mất nhân tính của những người ở hai phía đối lập trong cuộc xung đột này đã tạo ra những bất công và tàn bạo mà chúng ta đang chứng kiến. Về điều này, chúng ta có thể thu được lợi ích từ những suy tư sâu sắc của Đức Thánh Cha Phanxicô trong “Fratelli Tutti” về động lực phi nhân hóa vốn nằm ở trung tâm của chiến tranh và là động cơ của chiến tranh. Điều không thể tưởng tượng được không chỉ được chấp nhận mà còn được yêu cầu trong văn hóa chiến tranh, chính vì chúng ta tin rằng kẻ thù của chúng ta đã hy sinh mọi yêu cầu được đối xử nhân đạo do những gì họ đã làm.
Trong cuộc xung đột giữa Israel và Gaza, động lực này đã leo thang đến một viễn cảnh phi nhân tính rộng lớn hơn nhiều bởi vì cả cuộc tấn công của Hamas vào tháng 10 lẫn cuộc bao vây Gaza của Israel đều phản ánh quan điểm rằng sự khủng bố của chiến tranh có thể được giáng xuống toàn bộ dân thường một cách chính đáng mà không bị trừng phạt.
Giáo huấn xã hội Công giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của công bằng trong xã hội và trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Đức Thánh Cha Phanxicô, giống như những người tiền nhiệm, khẳng định không thể có hòa bình nếu không có công lý. Các nhà quan sát độc lập thừa nhận rằng việc không đảm bảo công lý cho người Palestine là gốc rễ của cuộc xung đột Israel-Palestine. Các chính quyền kế tiếp của Hoa Kỳ, cùng với một số cường quốc châu Âu, đã để cho thực tế bất công tiếp tục diễn ra ở Thánh địa. Có lý do gì để cho rằng chính quyền Mỹ sẽ thay đổi hướng đi?
Tôi hy vọng rằng trong quá trình đánh giá lại chính sách của Mỹ ở Trung Đông, hiện đang diễn ra trong nền văn hóa rộng lớn hơn của Hoa Kỳ, những câu hỏi về sự bất công kéo dài này sẽ trở nên nổi bật hơn nhiều. Israel đang phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh do vị trí địa lý và sự thù địch của nhiều quốc gia láng giềng; hành động khủng bố chống lại người dân Israel đã phóng đại vấn đề này lên rất nhiều.
Nhưng một thực tế đạo đức nhức nhối là Israel là một cường quốc quân sự chiếm đóng đã khiến người dân Palestine ở Bờ Tây phải chịu một cuộc sống liên tục bị đánh mất nhân tính và đã dựng lên những rào cản đối với cuộc sống bền vững cho người dân Gaza. Hơn nữa, các chính sách định cư của cả Israel lẫn Hoa Kỳ đều phản ánh sự thừa nhận tích cực và ngầm rằng sự chiếm đóng đang biến thành sự thuộc địa hóa. Những người định cư thường xuyên khủng bố thường dân Palestine và xâm chiếm đất đai của họ. Các bộ trưởng ở cấp cao nhất của chính phủ Israel tán thành việc chiếm đoạt toàn bộ lãnh thổ từ Jordan đến Biển Địa Trung Hải trong một đất nước Israel rộng lớn, trái ngược với những nguyên tắc cơ bản nhất khiến Liên hợp quốc ban đầu phê chuẩn việc thành lập nhà nước Israel. Mọi Giáo hoàng kể từ năm 1967 đều lên án sự chiếm đóng của Israel và những bất công mà nó tạo ra ở mức độ quy mô lớn, những bất công ngày càng gia tăng sau mỗi thập kỷ trôi qua.
Tòa án Hình sự Quốc tế được thành lập để xử lý các tội ác chiến tranh hoặc tội ác chống lại loài người, và gần đây, công tố viên trưởng Karim Khan đã yêu cầu các thẩm phán của tòa án ban hành lệnh bắt giữ các nhà lãnh đạo Hamas và Israel. Quyết định buộc tội các nhà lãnh đạo Israel của ông đã bị Israel, các thành viên Quốc hội Mỹ và Tổng thống Biden chỉ trích mạnh mẽ. Ông Khan đã đáp lại lời chỉ trích này trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Times of London và nói rằng: “Điều này có nghĩa là, ‘Chúng ta muốn sống trong một thế giới nơi luật pháp được áp dụng bình đẳng hay một thế giới mà chúng ta nhắm mắt và quay lưng vì lòng trung thành của mình?’”.
Quan điểm của các Giám mục Hoa Kỳ, hoặc của cá nhân ngài, là gì đối với nỗ lực này nhằm đảm bảo sự tôn trọng luật nhân đạo quốc tế và chống lại sự miễn trừ?
Câu hỏi về luật pháp quốc tế và việc tiếp tục chiến tranh là một phép thử xem liệu quốc gia chúng ta có thực sự tin tưởng vào việc áp dụng nhất quán các chuẩn mực đạo đức quốc tế hay không, ngay cả đối với các đồng minh thân cận nhất của chúng ta, thậm chí đối với chính chúng ta với tư cách là một quốc gia. Nó cũng là một phép thử để xem liệu quốc gia chúng ta có tin vào những nguyên lý cơ bản nhất của truyền thống chiến tranh chính nghĩa vốn đã thấm nhuần Giáo huấn Công giáo về chiến tranh và hòa bình trong 1.500 năm qua hay không. Người ta không thể nhìn vào việc Israel tiếp tục cuộc bao vây ở Gaza, đặc biệt là việc nước này bác bỏ một cách hiệu quả các nguyên tắc cân bằng và những rào cản đối với việc hỗ trợ nhân đạo mà nước này đã tạo ra, và kết luận rằng những hành động này không trái với các yếu tố trọng tâm của luật chiến tranh và Giáo huấn Công giáo. Làm khác đi là thúc đẩy sự mù quáng về mặt đạo đức có chọn lọc, gây tai hại cho nỗ lực xây dựng một trật tự quốc tế công bằng và phản ánh Giáo huấn Công giáo về chiến tranh và hòa bình.
Kể từ khi bắt đầu cuộc chiến mới nhất ở Gaza, chủ nghĩa bài Do Thái và bài Hồi giáo đã gia tăng ở Hoa Kỳ. Ngài nhận thấy điều này thế nào?
Cả chủ nghĩa bài Do Thái lẫn chủ nghĩa bài Hồi giáo đều nảy sinh từ những góc tối nhất của tâm hồn con người và văn hóa Hoa Kỳ. Chúng tạo thành những tuyên bố rằng một số bộ phận nhất định của cộng đồng, tức là quốc gia của chúng ta, không thực sự là một phần của chúng ta; chúng vĩnh viễn xa lạ. Chúng là sự phủ nhận rõ ràng rằng chúng ta thực sự và bình đẳng là con cái Thiên Chúa.
Với tư cách là một nhà lãnh đạo Công giáo, tôi phải đặc biệt đau đớn thừa nhận lịch sử của chủ nghĩa bài Do Thái trong đời sống Giáo hội của chúng ta. Cộng đồng Do Thái, như Công đồng Vatican II đã nói, là những người anh em lớn tuổi của chúng ta trong đức tin, đã liên tục trở thành đối tượng của sự thù ghét, loại trừ và lên án trong nền văn hóa Kitô giáo và trong nền văn hóa toàn cầu. Giờ đây, trong những ngày chiến tranh ở Trung Đông, những chiêu trò và chủ đề chống chủ nghĩa bài Do Thái đã trở nên rõ ràng hơn. Trách nhiệm của chúng ta là phải từ chối chúng một cách dứt khoát ở bất cứ nơi nào chúng được phát hiện.
Một trong những kết quả cực kỳ gay go của cuộc trò chuyện và tranh luận ở Mỹ trong 6 tháng qua là vấn đề chính xác khi nào những lời chỉ trích về hành động của nhà nước Israel trở thành bài Do Thái. Đây chính là một vấn đề nhức nhối bởi vì sự tồn tại và sự thịnh vượng của nhà nước Israel gắn chặt và hợp pháp với bản sắc tôn giáo và văn hóa của cộng đồng Do Thái. Cũng thật đau khổ vì chúng ta không thể xây dựng một khái niệm về chủ nghĩa bài Do Thái để ngăn chặn hoặc làm suy yếu những lời chỉ trích thực chất một cách hiệu quả – thậm chí là những lời chỉ trích gay – về hành động của nhà nước Israel; làm điều đó có nghĩa là trao quyền miễn trừ đạo đức cho Israel vốn không nên trao cho bất kỳ quốc gia nào.
Cùng với chủ nghĩa bài Do Thái, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của não trạng bài Hồi giáo và lòng căm thù người Palestine trong nền văn hóa của chúng ta. Cộng đồng Hồi giáo liên tục là đối tượng của sự thù địch tôn giáo, châm biếm và loại trừ. Có cả một kho thành kiến thăm thẳm và nguy hiểm đối với văn hóa và con người Hồi giáo xuất hiện trong các cuộc trò chuyện công khai và hành động chính trị được trù tính để mô tả mối đe dọa to lớn đối với lối sống của người Mỹ trong thực tiễn và nguyện vọng của những người theo đạo Hồi. Cuộc xung đột hiện nay ở Gaza đã làm gia tăng những hận thù và châm biếm này, đồng thời tạo ra những mối đe dọa mới đối với các thành viên của cộng đồng Hồi giáo tại quốc gia của chúng ta. Điều này không thể được dung thứ.
Kể từ ngày 8 tháng 10, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần kêu gọi ba điều: ngừng bắn, trả tự do cho các con tin bị Hamas và các nhóm khác bắt giữ, và cung cấp viện trợ nhân đạo cho người Palestine ở Gaza. Đức Hồng y đã chia sẻ quan điểm của Đức Thánh Cha, như được thể hiện rõ ràng trong bức thư mà ngài đã ký với những người Công giáo khác. Nhưng ngài nhắn nhủ điều gì với những người như Thủ tướng Israel, Benjamin Netanyahu, và những người ở Hoa Kỳ khẳng định rằng chiến tranh sẽ không thể kết thúc cho đến khi Hamas bị loại bỏ hoàn toàn?
Trong văn hóa chiến tranh, thông thường các quốc gia tập trung vào một mục tiêu duy nhất, thường là mang tính trừng phạt, trong nỗ lực huy động sự ủng hộ và biện minh cho các hành động bất hợp pháp về mặt đạo đức. Mục tiêu xác định là tiêu diệt Hamas mà Thủ tướng Netanyahu liên tục kêu gọi chỉ là một mục tiêu duy nhất, đã trở thành một cái bẫy cho chính sách của Israel.
Vấn đề với các mục tiêu trừng phạt duy nhất trong chiến tranh là chúng lấn át những mục tiêu quan trọng hơn vốn cung cấp thông tin cho chính sách quốc gia. Kết quả là, nỗ lực tiêu diệt Hamas đã tạo ra một thế hệ người Palestine hoàn toàn mới, những người sẽ căm ghét Israel không thể thay đổi vì những bất công mà họ đã trực tiếp trải qua. Một phong trào quốc tế sâu rộng hướng tới sự cô lập của Israel đã được tạo ra và sẽ không lắng xuống khi cuộc chiến này kết thúc.
Mục tiêu chung mà Israel và Mỹ nên tập trung không phải là tiêu diệt Hamas mà là tạo cơ sở để xây dựng nền hòa bình lâu dài hơn với sự hợp tác của các bên khác trong khu vực.
Do Hoa Kỳ là quốc gia ủng hộ chính của Israel và cung cấp cho nước này sự hỗ trợ to lớn về chính trị, ngoại giao, tài chính và quân sự, ngài có nghĩ Giáo hội Công giáo ở Hoa Kỳ nên có lập trường mang tính tiên tri hơn và nỗ lực nhiều hơn để thuyết phục chính quyền Biden và Quốc hội theo đuổi chính sách công nhận các quyền và sự đau khổ không chỉ của người Israel mà còn của người Palestine, nhằm thúc đẩy việc chấm dứt chiến tranh ở Gaza và thúc đẩy nền hòa bình công bằng và lâu dài giữa người Israel và người Palestine ở Thánh địa?
Tôi thực sự tin rằng cộng đồng Công giáo nói chung và các Giám mục Hoa Kỳ nói riêng, có thể và nên là những người ủng hộ mạnh mẽ hơn đối với lời kêu gọi đầy thách thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đang đưa ra cho tất cả các bên ở Trung Đông. Sự thật đơn giản là Mỹ là kho vũ khí của Israel. Vai trò đó đi kèm với trách nhiệm đạo đức to lớn, một trách nhiệm mà quốc gia chúng ta chưa phải đối mặt trong bối cảnh xảy ra vụ đánh bom kinh hoàng ở Gaza, nơi sử dụng vũ khí của chúng ta để giết hại bừa bãi phụ nữ và trẻ em lên tới hàng chục nghìn người.
Giáo hội của chúng ta nên nhắc lại và khuếch đại tuyên bố rằng các Giám mục đã ban hành lệnh ngừng bắn ngay lập tức với việc trao trả tất cả các con tin. Chúng ta nên yêu cầu hỗ trợ nhân đạo mà không có bất kỳ trở ngại và rào cản nào. Và chúng ta nên liên tục gây áp lực lên chính phủ của mình để có những hành động quyết liệt nhằm đương đầu với những bất công vốn có trong việc Israel chiếm đóng bất hợp pháp các vùng lãnh thổ của người Palestine.
Trong hơn ba thiên niên kỷ, Thiên Chúa đã xác định Israel và Palestine là nơi thiêng liêng của đức tin và sự hiện diện. Với tư cách là một Giáo hội và một quốc gia, chúng ta phải giúp đỡ việc cùng nhau xây dựng hòa bình tại Thánh Địa này.
Minh Tuệ (theo America)