Những số liệu thống kê của Giáo hội Công giáo năm 2018

Như mọi năm, theo quan điểm của Ngày Thế giới Truyền giáo, mà năm nay kỷ niệm Ngày Thế giới Truyền giáo lần thứ 92 vào ngày Chúa nhật, ngày 21 tháng 10 năm 2018, Fides News Service cung cấp một số số liệu thống kê được chọn để đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về công cuộc truyền giáo của Giáo hội trên toàn thế giới. Các con số thống kê được trích từ ấn bản mới nhất của “Sách Thống kê của Giáo hội” đã được công bố (cập nhật đến ngày 31 tháng 12 năm 2016) liên quan đến các thành viên của Giáo hội, cấu trúc Giáo hội, y tế, phúc lợi và giáo dục. Xin lưu ý rằng những thay đổi, tăng hoặc giảm, nổi lên từ việc so sánh với những  số liệu năm trước (năm 2015), được đánh dấu tăng ‘+’ hoặc giảm ‘-’ trong dấu ngoặc đơn.

Dân số thế giới

Cho đến ngày 31/12/2016, dân số thế giới là 7.352.289.000 người, tăng 103.348.000 đơn vị so với năm trước. Sự tăng trưởng dân số được ghi nhận trên mọi châu lục, bao gồm châu Âu: sự gia tăng đã được ghi nhận trước hết là tại châu Á (+ 49.767.000) và châu Phi (+ 42.898.000), tiếp theo là châu Mỹ (+ 8.519.000), Châu Âu (+ 1.307.000) và Châu Đại Dương (+ 857.000).

Giáo hội Công giáo

Cùng ngày, con số các tín hữu Công giáo trên thế giới vào khoảng 1,299.059.000 đơn vị với mức tăng tổng thể là 14.249.000. Sự gia tăng ảnh hưởng đến tất cả các châu lục, ngoại trừ châu Âu đối với năm thứ ba liên tiếp (- 240.000). Sự gia tăng đã được ghi nhận trước hết là tại châu Phi (+6.265.000) và ở châu Mỹ (+ 6.023.000) tiếp theo là châu Á (+ 1.956.000) và châu Đại Dương (+ 254.000). Tỷ lệ phần trăm người Công giáo giảm 0,05%, chiếm ở mức 17,67%. Theo châu lục: sự gia tăng đã được ghi nhận ở châu Mỹ (+ 0,06), Châu Á (+ 0,01) và Châu Đại Dương (+ 0,02), giảm ở châu Phi (- 0,18) và châu Âu (- 0,11).

Số tín hữu Công giáo bình quân đối với mỗi Linh mục

Năm nay, con số các tín hữu bình quân chia cho mỗi linh mục trên thế giới tăng 254 đơn vị, trung bình 14,336. Sự phân bố theo lục địa: gia tăng ở châu Phi (+ 271), châu Mỹ (+ 108), châu Âu (+ 66) và châu Đại Dương (+ 181). Sự sụt giảm duy nhất ở châu Á (- 264).

Số người Công giáo bình quân chia cho mỗi linh mục trên thế giới tăng 39 đơn vị, trung bình 3.130. Đã có sự gia tăng ở châu Phi (+ 7), Mỹ (+ 74); Châu Âu (+ 22), Châu Đại Dương (+ 52). Châu Á không thay đổi (-13).

Các khu vực địa hạt hành chính Giáo hội và các điểm truyền giáo

Số lượng địa hạt hành chính Giáo hội nhiều hơn 10 so với năm trước 3,016 với các địa hạt hành chính mới được thiết lập ở châu Phi (+3), Mỹ (+3), Châu Á (+3), Châu Âu (+1). Châu Đại Dương không thay đổi.

Các điểm truyền giáo với một linh mục cư trú là 2.140 (nhiều hơn năm trước 581 điểm). Sự sụt giảm chỉ được ghi nhận ở châu Phi (- 63), trong khi sự gia tăng đã được ghi nhận ở châu Mỹ (+ 98), Châu Á (+ 151) Châu Âu (+ 364) và Châu Đại Dương (+ 31).

Các điểm truyền giáo không có linh mục thường trú giảm về mặt số lượng khoảng 513 đơn vị, xuống còn 142.487. Sự gia tăng đã được ghi nhận ở châu Phi (+ 135), châu Âu (+ 456), và châu Đại Dương (+ 91). Con số này sụt giảm ở châu Mỹ (- 35) và châu Á (- 1.160).

Con số các Giám mục

Tổng số Giám mục trên thế giới tăng 49 đơn vị, lên 5.353. Các Giám mục Giáo phận và các Giám mục thuộc các Dòng tu đã gia tăng số lượng. Con số các Giám mục Giáo phận là 4.063 (thêm 27 vị), trong khi Giám mục thuộc các Dòng tu là 1,263 (thêm 22 vị).

Sự gia tăng con số các Giám mục Giáo phận được ghi nhận ở châu Mỹ (+ 20); Châu Á (+ 9), Châu Âu (+ 3), trong khi sự sụt giảm đã được ghi nhận ở Châu Phi (- 2) và Châu Đại Dương (- 3). Số lượng các Giám mục Dòng gia tăng ở tất cả các châu lục ngoại trừ Châu Á (- 7): Châu Phi (+ 5), Mỹ (+ 14), Châu Âu (+ 8), Châu Đại Dương (+ 2).

Linh mục

Tổng số linh mục trên thế giới sụt giảm thậm chí ngay cả trong năm nay, xuống còn 414.969 (- 687). Các châu lục duy nhất vốn ghi nhận sự suy giảm mạnh lại là châu Âu (- 2,583). Cũng có một sự sụt giảm ở châu Mỹ (-589). Sự gia tăng đã được ghi nhận ở Châu Phi (+ 1.181) và Châu Á (+ 1.304), Châu Đại Dương không tăng. Các linh mục Giáo phận tăng 317 đơn vị, đạt tổng số 281.831 với sự sụt giảm duy nhất ở châu Âu (- 1.611) và tăng ở châu Phi (+ 983); Châu Mỹ (+ 180), Châu Á (+ 744) và Châu Đại Dương (+ 21). Số linh mục Dòng giảm 1.004 đơn vị so với tổng số 133.138. Sự gia tăng đã được ghi nhận trong những năm gần đây ở châu Phi (+ 198) và ở châu Á (+ 560), trong khi con số này suy giảm ở châu Mỹ (- 769), Châu Âu (- 972), Châu Đại Dương (- 21).

Phó tế vĩnh viễn

Ccon số các Phó tế vĩnh viễn trên thế giới đã tăng 1.057 đơn vị lên 46.312. Mức tăng cao nhất lại được ghi nhận một lần nữa ở châu Mỹ (+842), tiếp theo là Châu Âu (+145), Châu Đại Dương (+45), Châu Phi (+22) và Châu Á (+3).

Con số Phó tế vĩnh viễn thuộc Giáo phận trên thế giới là 45.609, với tổng số tăng 982 đơn vị. Con số này gia tăng ở tất cả mọi châu lục ngoại trừ châu Á (-38): Châu Phi (+ 36), Mỹ (+ 807), Châu Âu (+130) và Châu Đại Dương (+ 47).

Con số Phó tế vĩnh viễn thuộc các Dòng tu là 703, tăng 75 đơn vị so với năm trước, với sự sụt giảm ở châu Phi (- 14) và châu Đại Dương (- 2), tăng ở châu Á (+41), châu Mỹ (+35) và châu Âu (+15).

Các Tu sĩ

Số lượng các linh mục không thuộc Dòng giảm năm thứ tư liên tiếp khoảng 1.604 đơn vị xuống còn 52.625. Tình hình: sự sụt giảm đã được ghi nhận ở tất cả các châu lục: ở châu Phi (-50), châu Mỹ (-503), Châu Á (-373), Châu Âu (-614) và Châu Đại Dương (-64). Thậm chí ngay cả trong năm nay, số lượng các nữ tu giảm 10.885 đơn vị xuống còn 659.445. Một sự gia tăng đã được ghi nhận ở châu Phi (+ 943) và châu Á (+ 533), sụt giảm ở châu Mỹ (- 3.775), Châu Âu (-8.370) và Châu Đại Dương (-216).

Thành viên của các Tu hội đời

Các thành viên của các Tu hội đời nam vào khoảng 618 với mức giảm (-79) sau một sự gia tăng so với năm trước. Ở cấp độ lục địa, có một sự gia tăng ở châu Phi (+2) và châu Á (+ 4), trong khi sụt giảm ở châu Mỹ (- 77), và châu Âu (-8), châu Đại Dương cũng không thay đổi trong năm nay.

Các thành viên của các Tu hội đời nữ đã sụt giảm trong năm nay, khoảng 459 đơn vị so với tổng số 22.400 thành viên. Sự gia tăng chỉ được ghi nhận ở châu Phi (+ 113), trong khi sự suy giảm đã được ghi nhận ở châu Mỹ (-33), Châu Á (-35) Châu Âu (- 502) và Châu Đại Dương (-2).

Các nhà truyền giáo và giáo lý viên giáo dân

Con số các nhà truyền giáo giáo dân trên thế giới là 354.743, với tổng số 2.946 đơn vị nói riêng ở châu Mỹ (+ 4.728) và Châu Phi (+759). Sự sụt giảm đã được ghi nhận ở châu Á (- 1.569), Châu Âu (-921) và Châu Đại Dương (- 55). Số lượng giáo lý viên trên thế giới đã giảm 36.364 đơn vị so với tổng số 3.086.289. Sự gia tăng chỉ được ghi nhận ở châu Phi (+ 10.669). Sự sụt giảm đã được ghi nhận ở châu Mỹ (- 20.407), Châu Á (- 12.896), Châu Âu (- 13.417) và Châu Đại Dương (- 313).

Các Đại Chủng Viện

Số lượng các Đại Chủng viện, các Giáo phận và các Dòng tu sụt giảm trong năm nay, trên toàn cầu có 683 đơn vị, đạt tổng số 116.160. Sự gia tăng xảy ra ở châu Phi (+1.455) và ở châu Á (+9), trong khi ngay cả trong năm nay, đã có một sự sụt giảm ở châu Mỹ (-1.123), châu Âu (-964) và châu Đại Dương (-60).

Số lượng các Đại Chủng viện Giáo phận là 71.117 (+999 so với năm trước) và các Tu viện Dòng là 45.043 (-1.682). Các Đại Chủng viện Giáo phận tăng ở châu Phi (+1.059), châu Mỹ (+16) và châu Á (+310), trong khi đó lại sụt giảm ở châu Âu (-381) và châu Đại Dương (-5). Các Chủng viện chỉ tăng ở châu Phi (+396), trong khi lại sụt giảm ở châu Mỹ (-1.139), châu Á (-301), châu Âu (-583) và châu Đại Dương (-55).

Các Tiểu Chủng viện

Số lượng các Tiểu Chủng viện trong năm nay giảm 2.735 đơn vị xuống còn 101.616. Sự sụt giảm chung trên tất cả các châu lục: Châu Phi (-69), Châu Mỹ (-1,299), Châu Á (-871), Châu Âu (-581), Châu Đại Dương (-5).

Con số các Tiểu Chủng viện Giáo phận là 78.369 (-1.729) và con số các chủng sinh là 23.247 (-1.006). Số lượng các Tiểu Chủng viện Giáo phận tăng ở châu Phi (+ 236) và châu Đại Dương (+7), trong khi đó sụt giảm ở châu Mỹ (-684), Châu Á (-988), Châu Âu (-300), chủng sinh tôn giáo tăng chỉ ở châu Á (+207), trong khi giảm ở châu Phi (-305), châu Mỹ (-615), châu Âu (-281) và Châu Đại Dương (-12).

Các trường học Công giáo và Giáo dục Công giáo

Trong lĩnh vực giáo dục, Giáo hội Công giáo quản lý 72.826 trường mẫu giáo với 7.313.370 học sinh; 96.573 trường tiểu học với 35.125.124 học sinh; 47.862 trường trung học cơ sở với 19.956.347 học sinh. Giáo Hội cũng chăm sóc cho 2.509.457 học sinh trung học, và 3.049.548 học sinh đại học.

Các Trung tâm y tế và từ thiện Công giáo

Các trung tâm y tế và từ thiện do Giáo Hội điều hành trên toàn thế giới bao gồm: 5.287 bệnh viện, hầu hết ở châu Mỹ (1.530) và Châu Phi (1.321); 15.937 trạm xá, chủ yếu ở châu Phi (5.177); Châu Mỹ (4.430) và châu Á (3.300); 610 Nhà chăm sóc cho những người bị bệnh phong, chủ yếu ở châu Á (352) và châu Phi (192); 15.722 Ngôi nhà dành cho những người lớn tuổi, hoặc những người mắc bệnh mạn tính hoặc những người khuyết tật, chủ yếu ở Châu Âu (8.127) và châu Mỹ (3.763); 9.552 trại trẻ mồ côi, chủ yếu ở châu Á (3.660); 11.758 nhà trẻ, chủ yếu ở châu Á (3.295) và châu Mỹ (3.191); 13.897 trung tâm tư vấn kết hôn, chủ yếu ở châu Âu (5.664) và châu Mỹ (4.984); 3.506 trung tâm phục hồi xã hội và 35.746 tổ chức từ thiện khác.

Các khu vực địa hạt Giáo hội phụ thuộc Thánh Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các Dân tộc

Con số các khu vực địa hạt Giáo hội phụ thuộc Thánh Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các Dân tộc (Cep) là 1.114 với việc gia tăng 3 khu vực địa hạt so với năm ngoái. Hầu hết các khu vực địa hạt Giáo hội chủ yếu nằm ở châu Phi (511) và ở châu Á (482), tiếp theo là châu Mỹ (75) và châu Đại Dương (46).

Minh Tuệ chuyển ngữ

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube