Bận tâm của Hội Thánh trong "Amoris Laetitia"

Tông huấn cung cấp hai điểm quan trọng: lời tuyên bố lặp đi lặp lại về ý chí vững chắc giữ sự trung thành với giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân và gia đình; cái nhìn của Giáo hội, của các mục tử và của các tín hữu, đối với những kết hợp không hợp luật, đặc biệt là các cuộc hôn nhân dân sự không bí tích và các kết hợp chỉ thuần túy trên thực tế.

 

20161121 amoris laetitia

 

Trình bày đạo lý của Hội Thánh về hôn nhân và gia đình

Chúng ta hãy đọc một đoạn văn của chính Tông huấn:

Hôn nhân Kitô giáo, phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, được thực hiện một cách trọn vẹn trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu và sự trung thành trong tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và mở ra cho việc truyền sinh, họ được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội. Các hình thức kết hợp khác đều hoàn toàn nghịch lại với lí tưởng này, trong khi một số người lại thực hiện lí tưởng này ít là một cách phiến diện hay loại suy. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định rằng Hội thánh không xem nhẹ các yếu tố mang tính xây dựng trong những hoàn cảnh chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp với giáo huấn của mình về hôn nhân (Cf. RS 2014, 41-43; RF 2015, 70)” (n. 292).

Kèm theo đó là một mối bận tâm mục vụ liên quan đến sự hiểu biết của rất nhiều người trẻ về hôn nhân.

Tông huấn viết:

Đàng khác, điều đáng lo ngại là ngày nay nhiều người trẻ không tin tưởng vào hôn nhân và họ sống chung nhưng trì hoãn vô thời hạn việc cam kết hôn nhân, trong khi những người khác chấm dứt sự cam kết mình đã đảm nhận để rồi lập tức làm một sự cam kết mới. Những ai “là thành phần thuộc Hội thánh thì cần được quan tâm chăm sóc mục vụ với đầy lòng thương xót và khích lệ (RS 2014, 26)” (n. 293).

Thái độ mục vụ của Giáo hội đối với những người ở trong những tình cảnh “rối hôn phối”

Tông huấn đưa ra những lời tuyên bố lặp đi lặp lại về ý chí vững chắc giữ sự trung thành với giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân và gia đình. Chúng ta có thể đọc lại, ví dụ:

“…một sự kết hợp mới xảy ra từ một cuộc li dị chưa lâu, với tất cả những hậu quả của khổ đau và hoang mang gây ra cho con cái và toàn thể gia đình, hoặc trường hợp của một người liên tục bỏ bê bổn phận gia đình. Cần phải thấy rõ rằng đó không phải là lí tưởng mà Tin mừng đề ra cho hôn nhân và gia đình” (n. 298).

Đành rằng trong chính lề luật không có sự tiệm tiến (cf. Familiaris Consortio, 34), nhưng việc phân định này sẽ không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị… Đó là những thái độ cơ bản thiết yếu để tránh những nguy cơ nghiêm trọng của việc hiểu sai lệch… Khi một người có trách nhiệm và thận trọng, nghĩa là người đó không có ý đặt những ước muốn riêng của mình trên lợi ích chung của Hội thánh, gặp một Mục tử biết nhận ra tính nghiêm túc của vấn đề mà mình đang phải giải quyết, thì tránh được nguy hiểm khi làm một sự phân định nào đó mà người ta có thể nghĩ rằng Hội thánh ủng hộ một nền luân lí hai mặt” (n. 300).

Để hiểu cho đúng tại sao có thể và cần phải có một sự phân định đặc biệt trong một số hoàn cảnh gọi là “bất qui tắc”, có một vấn đề ta luôn phải lưu ý, đó là làm sao để đừng bao giờ làm cho người ta nghĩ rằng mình muốn giảm thiểu những đòi hỏi của Tin mừng” (n. 301).

Để tránh mọi giải thích lệch lạc, tôi nhắc lại rằng dù sao đi nữa Hội thánh cũng không được từ bỏ đề nghị lí tưởng trọn vẹn của hôn nhân, kế hoạch của Thiên Chúa trong tất cả tầm vóc cao cả của nó… Thái độ lãnh đạm, chủ nghĩa duy tương đối dưới bất cứ hình thức nào, hoặc sự dè dặt thái quá khi đề xuất lí tưởng này, sẽ là một sự thiếu trung thành với Tin mừng, và cũng là thiếu tình yêu của Hội thánh đối với chính những người trẻ. Cảm thông với những hoàn cảnh ngoại lệ không bao giờ hàm nghĩa che giấu ánh sáng của lí tưởng trọn vẹn nhất và cũng không cắt bớt những gì Đức Giêsu đã trao ban cho con người…” (n. 307).

Về cái nhìn của Giáo hội, của các mục tử và của các tín hữu, đối với những kết hợp không hợp luật, đặc biệt là các cuộc hôn nhân dân sự không bí tích và các kết hợp chỉ thuần túy trên thực tế: phải tích cực và mang tính xây dựng. Chúng ta có thể đọc vài bản văn:

Các Nghị phụ cũng xem xét hoàn cảnh đặc biệt của một cuộc hôn nhân thuần túy dân sự hoặc thậm chí, ở đây cần có sự phân biệt, chỉ là một sự sống chung, trong đó “khi sự kết hợp đạt đến một sự ổn định đáng kể qua một mối liên kết công khai nào đó, chứng tỏ có một tình cảm sâu nặng và trách nhiệm đối với con cái, có khả năng vượt qua các thử thách, thì có thể được xem như một cơ hội đồng hành nhằm phát triển đến bí tích hôn phối” (RS 2014, 27)… Thật vậy, các Mục tử không những chỉ quan tâm thăng tiến hôn nhân Kitô giáo, mà còn phải lo “phân định mục vụ về hoàn cảnh của nhiều người không còn sống thực tại ấy”, để “đi vào đối thoại mục vụ với những người này nhằm xác định rõ ràng các yếu tố của đời sống họ có thể dẫn đến một sự cởi mở hơn với Tin mừng về hôn nhân ở mức trọn vẹn của nó” (RS 2014, 41). Trong việc phân định mục vụ này cần “nhận diện các yếu tố có thể thúc đẩy việc Phúc Âm hóa và phát triển nhân bản cũng như thiêng liêng” (ibid.)” (n. 293).

Người ta lựa chọn hôn nhân dân sự hoặc, trong một số trường hợp khác nhau, đơn giản chỉ là sống chung, thường không bị thúc đẩy bởi thành kiến ​​hay phản kháng đối với kết hợp bí tích, nhưng do hoàn cảnh văn hóa hay ngẫu nhiên” (Relatio finalis 2015, 71). Trong những hoàn cảnh này ta có thể trân trọng những dấu chỉ của tình yêu, một cách nào đó chúng phản ánh tình yêu của Thiên Chúa (ibid.). ..  Việc đơn thuần sống chung thường là sự chọn lựa bởi tâm thức phổ biến đó là chống lại các định chế và những dấn thân dứt khoát, nhưng cũng vì muốn chờ đợi cho tới khi một cuộc sống Ổn định hơn (có việc làm và mức lương cố định). Sau hết, tại một số quốc gia, những sự kết hợp trên thực tế có rất nhiều, không chỉ vì họ bác bỏ các giá trị của gia đình và hôn nhân, nhưng nhất là vì việc kết hôn được xem là một việc rất tốn kém, do những hoàn cảnh xã hội, như thế sự khó nghèo vật chất đã đưa đẩy họ đến chỗ sống kết hợp trên thực tế” (RS 2014, 42). Dù sao đi nữa, “tất cả những hoàn cảnh này cần phải được đối diện giải quyết một cách xây dựng, bằng cách biến chúng thành những cơ hội để tiến dần tới hôn nhân và gia đình trọn vẹn trong ánh sáng của Tin mừng. Điều quan trọng là đón nhận và đồng hành với họ bằng sự kiên nhẫn và tế nhị”. Đó là điều mà Đức Giêsu đã làm với người phụ nữ Samaria (Ga 4,1-26): Người đề cập đến khát vọng tình yêu đích thực của chị, để giải thoát chị khỏi những gì làm u tối cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của Tin mừng” (n. 294).

Về cách xử lý những hoàn cảnh được gọi là “bất qui tắc”, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã đạt đến một sự đồng thuận chung mà tôi ủng hộ: “Khi xét đến đường lối mục vụ dành cho những người đã kí kết hôn phối dân sự, những người đã li dị và tái hôn, hoặc chỉ đơn thuần là sống chung, Hội thánh phải giúp cho họ hiểu khoa sư phạm ân sủng Thiên Chúa trong đời sống của họ và giúp họ đạt đến sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa nơi họ”, điều này luôn khả thi nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (n. 297).

 

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube