TÔNG HUẤN "AMORIS LAETITIA" (Chương III: các số 58 - 88)

CHƯƠNG BA

NHÌN LÊN CHÚA GIÊSU

ƠN GỌI CỦA GIA ĐÌNH

 

  1. Trong và giữa các gia đình, sứ điệp Tin mừng phải luôn âm vang; cốt lõi của sứ điệp đó, lởi rao giảng tiên khởi, là những gì “đẹp nhất, tuyệt nhất, cảm động nhất và đồng thời cũng cần thiết nhất”[1]. Sứ điệp này “phải chiếm chỗ trung tâm trong mọi hoạt động loan báo tin mừng”[2]. Đó là lời loan báo đầu tiên và quan trọng nhất, “ta phải nghe đi nghe lại bằng những cách thức khác nhau và ta phải luôn loan báo dưới hình thức này hay hình thức khác”[3]. Quả thế, “không gì vững chắc, sâu sắc, an toàn, ý nghĩa và khôn ngoan hơn sứ điệp ấy”. Thật ra, “mọi nền đào tạo Kitô giáo đều bao gồm việc ngày một đi sâu hơn vào lời rao giảng này”[4]
  2. Giáo huấn của ta về hôn nhân và gia đình không thể không được gợi hứng và biến đổi nhờ sứ điệp của tình yêu và sự âu yếm; nếu không, giáo huấn ấy sẽ chẳng là gì chỉ là việc bảo vệ một đạo lý khô khốc, không có sự sống. Mầu nhiệm của gia đình Kitô giáo chỉ có thể hiểu được cách trọn vẹn dưới ánh sáng của tình yêu vô biên của Thiên Chúa Cha được mặc khải trong Đức Kitô, Đấng đã hiến mình vì ta và vẫn tiếp tục ở lại giữa ta. Bây giờ tôi muốn hướng nhìn về Đức Kitô hằng sống, Đấng luôn ở tại trung tâm của nhiều câu chuyện tình, và luôn khơi lên ngọn lửa Thần khí trên mọi gia đình trên trần gian.
  3. Vậy chương ngắn gọn này sẽ tóm tắt giáo huấn Kitô giáo về hôn nhân và gia đình. Ở đây, tôi sẽ đề cập tới những gì các Nghị phụ Thượng Hội Đồng đã phải nói về ánh sáng do đức tin đem lại. Các ngài đã bắt đầu với cái nhìn của Chúa Giêsu và nói về “cách Ngài nhìn những người Ngài gặp bằng tình yêu thương và lòng âu yếm, khi cùng đi với họ trong sự thật, kiên nhẫn và xót thương khi Ngài công bố những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa”[5]. Hôm nay Chúa cũng ở với ta, khi ta tìm cách thực hành và chuyển giao Tin mừng này cho các gia đình.

Chúa Giêsu phục hồi và hoàn tất kế hoạch của Thiên Chúa

  1. Trái nghịch với những người chối bỏ hôn nhân vì coi là xấu, Tân ước dạy rằng “Mọi sự Thiên Chúa tạo dựng đều tốt và ta không phải loại bỏ điều gì” (1 Tim 4, 4). Hôn nhân là “một quà tặng” của Chúa (1 Cr 7, 7). Đồng thời, chính vì sự hiểu biết tích cực này mà Tân ước nhấn rất mạnh đến nhu cầu gìn giữ quà tặng của Thiên Chúa: “mọi người phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế” (Hr 13, 4). Quà tặng này của Thiên Chúa gồm cả giới tính: “Vợ chồng đừng từ chối nhau” (1 Cr 7, 5).
  2. Các Nghị phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng Chúa Giêsu “khi nói về kế hoạch của Thiên Chúa cho con người, đã tái khẳng định sự hợp nhất vô phương tháo gỡ của vợ chồng, thậm chí còn tuyên bố rằng ‘chỉ vì lòng chai dạ đá của các của người mà Môsê đã cho phép ly dị, nhưng ngay từ ban đầu đã thế rồi’ (Mt 19, 8). Sự vô phương tháo gỡ này của hôn nhân – ‘điều gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly’ (Mt 19, 6) – không được coi là một ‘cái ách’ đè trên con người, mà phải coi là ‘một quà tặng’ được ban cho những ai hợp nhất với nhau trong hôn nhân … tình yêu khoan dung của Thiên Chúa bao giờ cũng tháp tùng cuộc hành trình của loài người chúng ta; nhờ ân sủng, tình yêu ấy chữa lành và biến đổi các tâm hồn chai đá, đưa họ trở về với thuở ban đầu nhờ con đường thập giá. Các tin mừng trình bày rõ gương sáng của Chúa Giêsu Đấng…công bố ý nghĩa của hôn nhân như sự viên mãn của mặc khải, phục hồi kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa” (x. Mt 19, 3)[6]
  3. “Chúa Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự trong Ngài, đã trả lại cho hôn nhân và gia đình hình thức nguyên thủy của nó (x. Mt 10, 1 – 12). Hôn nhân và gia đình đã được Đức Kitô cứu chuộc (x. Ep 5, 21 – 32) và được phục hồi theo hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, tình yêu đích thật từ đó trào ra mầu nhiệm duy nhất đó. Giao ước hôn nhân, bắt nguồn từ tạo thành và được mặc khải trong lịch sử cứu độ, bao giờ cũng mặc lấy ý nghĩa trọn vẹn của nó trong Đức Kitô và Hội thánh Ngài. Nhờ Hội thánh Ngài, Đức Kitô ban cho hôn nhân và gia đình ân sủng cần thiết để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa và để sống đời hiệp thông. Tin mừng về gia đình mở rộng lịch sử thế giới này, từ lúc tạo thành con người theo hình và giống Thiên Chúa (x. St 1, 26 – 27), tới lúc hoàn tất mầu nhiệm giao ước trong Đức Kitô vào ngày tận thế với Tiệc Cưới Chiên Con (x. Kh 19, 9)[7].
  4. “Gương sáng của Chúa Giêsu chính là nền tảng của Hội thánh… Ngài khởi sự thừa tác vụ công khai của Ngài với phép lạ tại tiệc cưới Cana (x. ga 2, 1 – 11). Ngài tham dự những khoảnh khắc nghĩa tình mọi ngày với gia đình Lazarô và các chị ông (x. Lc 10, 38) và với gia đình thánh Phêrô (x. Mc 8, 14). Ngài thông cảm với các cha mẹ đau buồn và phục hồi sự sống cho con cái họ (x. Mc 5, 41; Lc 7, 14 – 15). Theo cách này, Ngài thể hiện ý nghĩa đích thật của lòng xót thương, luôn đòi hỏi việc phục hồi giao ước (x, Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia). Điều này rất rõ trong cuộc nói chuyện với người phụ nữa Samarita (x. Ga 4, 1- 30) và với người phụ nữ bị bắt ngoại tình (x. Ga 8, 11), khi ý thức về tội lỗi được thức tỉnh do việc gặp gỡ tình yêu những không của Chúa Giêsu”[8]
  5. Việc Ngôi Lời nhập thể vào trong gia đình nhân loại, tại Nazaret, do chính sự mới mẻ của việc nhập thể ấy, đã thay đổi lịch sử thế giới này. Ta cần đi vào trong mầu nhiệm giáng sinh của Chúa Giêsu, vào trong lời “xin vâng” của Đức Maria với sứ điệp của thiên thần, khi Ngôi Lời được cưu mạng trong cung lòng mẹ, cũng như lời “xin vâng” của thánh Giuse, người đã đặt tên cho Chúa Giêsu và bảo vệ Đức Maria. Ta cần chiêm ngắm niềm vui của các mục đồng trước máng cỏ, việc thờ lạy của các đạo sĩ và việc trốn sang Ai cập, trong   đó, Chúa Giêsu   chia sẻ kinh nghiệm lưu đầy, bị bắt bớ và  sỉ nhục của dân Ngài. Ta cần chiêm ngắm sự trông đợi của Zacharia và niềm vui của ông lúc Gioan Tẩy giả chào đời, chiêm ngắm việc thực hiện lời  đã  hứa với Simeon và Anna trong Đền thờ và  sự kinh ngạc của các thầy thông Luật khi lắng nghe sự khôn ngoan của thiếu niên Giêsu. Rồi ta cũng cần nhìn kỹ vào ba mươi năm đằng đẵng ấy khi Chúa Giêsu phải nhọc nhằn kiếm  sống bằng đôi bàn tay mình, việc đọc các kinh nguyện truyền thống  và các cách diễn tả đức tin của dân Ngài và   việc học biết đức tin của tổ tiên cho tới khi làm cho đức tin sinh hoa trái trong mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Đó là mầu nhiệm Giáng sinh và ẩn dật tại Nazaret, ứa tràn vẻ tuyệt mỹ của  cuộc sống gia đình! Chính mầu nhiệm này đã từng quyến rũ thánh  Phanxicô Assisi, thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu và  Charles de Foucauld, và hiện vẫn  không ngừng đổ tràn niềm hoan lạc và hy vọng trên các  gia đình.
  1. “Giao ước tình yêu và trung thành Thánh Gia Nazaret đã sống cho thấy rõ nguyên tắc định hình nên mọi gia đình, và làm cho gia đình ấy có thể đương đầu cách tốt hơn với những thăng trầm của cuộc sống và lịch sử. Dựa trên nền tảng này, mỗi gia đình, bất kể những yếu hèn của mình, đều có thể trở thành ánh sáng chiếu tỏa trong những tối tăm của thế giới hôm nay. ‘Nazaret dạy ta ý nghĩa của cuộc sống gia đình, sự hiệp thông yêu thương, nét đẹp giản dị và chân phương, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của cuộc sống ấy. Ước gì Thánh Gia ấy luôn dạy cho biết sự uốn nắn của gia đình ấy ngọt ngào và bất khả thay thế, vai trò của gia đình ấy trong trật tự xã hội căn bản và vô phương sánh ví ra sao’ (Phao lô VI, Address in Nazareth, 5 January 1964)”[9]

Gia đình trong các văn kiện của Hội thánh

  1. Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Mục vụ Gaudium et Spes, quan tâm đến việc “đề cao phẩm giá của hôn nhân và gia đình (x. số 47 – 52)”. Hiến chế này “đã định nghĩa hôn nhân là một cộng đoàn sự sống và tình yêu” (48), khi đặt tình yêu vào trung tâm của gia đình … ‘Tình yêu đích thật giữa vợ chồng’ luôn liên quan tới việc trao ban sự sống cho nhau, luôn bao gồm và thống nhất các chiều kích tình cảm và giới tính theo kế hoạch của Thiên Chúa (x. 48 – 49)”. Văn kiện này của Công Đồng cũng nhấn mạnh đến “việc vợ chồng đặt nền móng trong Đức Kitô”. Chúa Kitô “làm cho mình hiện diện với vợ chồng Kitô hữu trong bí tích Hôn phối’ (48) và ở lại với họ. Trong việc nhập thể, Ngài mặc lấy tình yêu nhân loại, thanh tẩy và đưa tình yêu ấy đến chỗ hoàn tất. Nhờ Thần khí, Ngài ban cho vợ chồng khả năng sống tình yêu ấy, bằng cách thấm nhập mọi phần của đời sống tin, cậy, mến của họ. Nhờ thế, vợ chồng được thánh hiến và nhờ ân sủng đặc biệt họ xây dựng Thân mình Đức Kitô và làm nên Hội thánh địa phương (x. Lumen Gentium, 11), đến độ Hội thánh muốn hiểu mình cách trọn vẹn, phải nhìn vào gia đình Kitô giáo, là nơi đang thể hiện Hội thánh cách đích thật”[10].
  2. Tiếp bước Công Đồng Vatican II, Chân phước Phaolô VI, đã khai triển rộng hơn giáo huấn của Hội thánh về hôn nhân và gia đình. Cách riêng với Thông điệp Humanae Vitae, ngài đã đưa ra mối quan hệ nội tại giữa tình yêu vợ chồng và việc sản sinh sự sống: ‘Tình phu phụ đòi vợ chồng ý thức đầy đủ những bổn phận của mình trong vấn đề làm cha mẹ có trách nhiệm, mà hôm nay, hơn khi nào hết, phải nhấn mạnh nhiều hơn nữa, nhưng đồng thời, cũng phải hiểu cho đúng… Thực thi việc làm cha mẹ có trách nhiệm đòi vợ chồng, trong khi phải giữ trật tự ưu tiên cách đúng đắn, vẫn phải nhận ra các bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, với chính mình, với gia đình và xã hội loài người’ (số 10). Trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, Đức Phaolô VI cũng nhấn mạnh đến tương quan giữa gia đình và Hội thánh”[11].
  3. “Thánh Gioan Phaolô II đã đặc biệt chú ý tới gia đình trong các bài giáo lý của ngài về tình yêu nhân loại, trong thư gửi cho các gia đình Gratissimam Sane, cách riêng trong Tông huấn Familiaris Consortio. Trong các văn kiện này, Đức Thánh Cha đã định nghĩa gia đình là ‘con đường của Hội thánh’. Ngài cũng đem lại một cái nhìn chung về ơn gọi yêu thương của con người và đã đưa ra những chỉ dẫn căn bản về việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình trong xã hội. Cách đặc biệt, khi bàn về tình yêu vợ chồng (x. số 13), ngài đã mô tả vợ chồng, trong lòng yêu thương nhau, trong việc đón nhận ân huệ của Thần khí của Đức Kitô và sống ơn gọi nên thánh của mình ra sao”[12].
  4. “Đức Thánh Cha Benedicto XVI, trong Thông điệp Deus Caritas Est, đã quay lại với chủ đề về sự thật của tình yêu con người, một tình yêu chỉ được sáng tỏ trọn vẹn trong tình yêu của Đức Kitô chịu đóng đinh (x. số 2). Ngài nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân được xây dựng trên một tình yêu riêng biệt và rõ ràng bao giờ cũng trở thành biểu tượng chói ngời của mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và ngược lại. Cách thức yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo của tình yêu nhân loại’ (11). Hơn nữa, trong Thông điệp Caristas in Veritas, ngài còn chọn tầm quan trọng của tình yêu làm nguyên tắc sống trong xã hội (x. 44), làm nơi ta học được kinh nghiệm về công ích”[13].

Bí tích hôn phối

  1. “Kinh thánh và truyền thống đưa ta đến gần sự hiểu biết Chúa Ba Ngôi, được mặc khải với những đặc tính của gia đình. Gia đình là hình ảnh của Thiên Chúa, là sự hiệp thông của các ngôi vị. Khi Đức Kitô chịu phép rửa, người ta nghe được tiếng Chúa Cha, gọi Chúa Giêsu là Con Yêu dấu, và trong tình yêu này ta có thể nhận ra Chúa Thánh Thần (x. Mc 1, 10 – 11). Chúa Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự nơi chính mình và cứu ta khỏi tội lỗi, không chỉ trả hôn nhân và gia đình lại cho hình thức nguyên thủy của chúng mà còn nâng hôn nhân lên dấu chỉ bí tích của tình yêu Ngài dành cho Hội thánh (x. Mt 19, 1 – 12; Mc 10, 1 – 12; Ep 5, 21 – 32). Trong gia đình nhân loại do Đức Kitô qui tụ, ‘hình ảnh và việc giống’ Chúa Ba Ngôi đã được phục hồi (x. St 1, 26), mọi tình yêu đích thật đều trào ra từ mầu nhiệm này. Nhờ Hội thánh, hôn nhân và gia đình đón nhận ân sủng của Chúa Thánh Thần nhờ Đức Kitô, để làm chứng cho Tin mừng về tình yêu Thiên Chúa”[14].
  2. Bí tích hôn phối không phải là một giao ước xã hội, một nghi lễ rỗng tuếch hay chỉ là dấu chỉ bên ngoài của một sự cam kết nào đó. Bí tích này là ân sủng được ban để đem lại cho vợ chồng ơn thánh hóa và ơn cứu độ, vì nhờ dấu chỉ bí tích này, “việc họ thuộc về nhau là một biểu tượng đích thật của mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội thánh. Vì thế vợ chồng là một gợi nhớ muôn đời về những gì đã xảy ra trên thập giá đối với Hội thánh; họ là những chứng nhân của ơn cứu độ họ đang được tham dự, cho nhau và cho con cái mình, nhờ bí tích này”[15]. Hôn nhân là một ơn gọi, vì đó là việc đáp lại lời kêu gọi đặc biệt cảm nghiệm tình yêu vợ chồng như một dấu chỉ bất toàn của tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh. Vì thế, quyết định kết hôn và có một gia đình phải là kết quả của một tiến trình biện phân ơn gọi.
  3. “Việc hiến trao sự sống cho nhau trong bí tích hôn phối được xây dựng trên ân sủng của bí tích Thánh tẩy, một bí tích thiết lập giao ước căn bản của mỗi người với Đức Kitô trong Hội thánh. Khi chấp nhận nhau, và với ân sủng của Đức Kitô, vợ chồng đã đính hôn này hứa hoàn toàn hiến mình cho nhau, trung thành với nhau và mở ra cho sự sống mới. Đôi bạn công nhận ba yếu tố này là ba yếu tố làm nên vợ chồng, những âu huệ Thiên Chúa ban cho họ, tôn trọng việc cam kết với nhau, nhân danh Thiên Chúa và trong sự hiện diện của Hội thánh. Như thế, đức tin làm cho họ có thể đảm nhận những lời hứa của hôn nhân vì họ sẽ tuân giữ những lời cam kết cách tốt hơn nhờ ân sủng của bí tích… Vì thế, Hội thánh nhìn các vợ chồng như trọng tâm của toàn gia đình, một gia đình luôn hướng về Chúa Giêsu”[16]. Bí tích này không phải là một “đồ vật” hay “một sức mạnh” vì trong bí tích ấy chính Đức Kitô “đang gặp gỡ các vợ chồng Kitô giáo… Ngài ở với họ, ban cho họ sức mạnh để vác thập giá theo Ngài, để trỗi dậy sau khi té ngã, để tha thứ cho nhau, mang gánh nặng của nhau”[17]. Hôn nhân Kitô giáo là dấu chỉ cho thấy Đức Kitô yêu mến Hội thánh ra sao trong giao ước được đóng ấn trên thập giá, giao ước ấy cũng làm cho tình yêu hiện diện trong sự hiệp thông của vợ chồng. Nhờ được nên một xương một thịt, họ trở thành hiện thân của cuộc kết hợp với bản tính nhân loại của Con Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao “trong niềm hân hoan của tình yêu và đời sống họ, Chúa luôn cho họ được nếm trước tiệc cưới Chiên Con ngay khi còn ở đây trên trần gian này”[18]. Dù việc so sánh giữa cuộc hôn nhân của con người với cuộc hôn nhân của Đức Kitô với Hội thánh còn “khập khiễng”[19], nhưng vẫn thôi thúc ta nài xin Chúa tuôn đổ dẫy tràn tình yêu Thiên Chúa của Ngài xuống trên mỗi vợ chồng.
  4. Sự kết hợp giới tính, được cảm nghiệm cách yêu thương và được thánh hóa nhờ bí tích, lần lượt là con đường cho vợ chồng lớn lên trong đời sống ân sủng. Sự kết hợp ấy là “mầu nhiệm hôn nhân”[20]. Ý nghĩa và giá trị của sự kết hợp thể lý này được diễn tả trong những lời ưng thuận, trong đó, họ chấp nhận nhau và người này hiến mình cho người kia, để chia sẻ cuộc sống cách trọn vẹn. Những lời ấy đem lại ý nghĩa cho quan hệ giới tính và giải thoát giới tính ấy khỏi sự hàm hồ. Cách chung hơn, cuộc sống chung của vợ chồng, toàn bộ mạng lưới tương quan mà họ xây dựng với con cái và thế giới chung quanh, sẽ được thấm nhiễm và củng cố bởi ân sủng của bí tích. Vì bí tích hôn phối trào ra từ cuộc nhập thể và mầu nhiệm vượt qua, nơi Thiên Chúa bày tỏ sự sung mãn của tình yêu Ngài cho nhân loại nhờ trở nên một người giữa ta. Nên cả vợ lẫn chồng đều không phải một mình đương đầu với bất cứ thách thức nào có thể xảy ra trên đường. Cả hai đều được mời gọi đáp lại ân sủng của Thiên Chúa bằng sự cam kết, sáng tạo, kiên trì và cố gắng hằng ngày. Họ có thể không ngừng cầu khẩn sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng hiến thánh sự kết hợp của họ, để họ có thể cảm được ân sủng của Ngài trong mọi hoàn cảnh mới họ gặp phải.
  5. Theo truyền thống của Hội thánh Latinh, các thừa tác viên của bí tích hôn phối chính là hai người kết hôn[21]; nhờ thể hiện sự ưng thuận và diễn tả sự ưng thuận ấy cách thể lý, họ đón nhận một ân huệ lớn lao. Sự ưng thuận và sự kết hợp thân xác của họ là phương tiện do Thiên Chúa chỉ định qua đó họ trở nên “một xương, một thịt”. Nhờ sự thánh hiến của bí tích Thánh tẩy, họ có thể kết hợp với nhau trong hôn nhân với tư cách là các thừa tác viên của Chúa và như thế họ cũng đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa. Vì thế, khi hai vợ chồng không phài là Kitô hữu đón nhận bí tích Thánh tẩy, họ không cần phải canh tân lời thề hứa hôn nhân; họ chỉ cần không từ bỏ hôn ước ấy, vì nhờ đón nhận bí tích Thánh tẩy, sự kết hợp của họ tự động thành bí tích. Giáo luật cũng công nhận sự thành sự của một số cuộc kết hợp được cử hành mà không có sự hiện diện của các thừa tác viên có chức thánh[22]. Trật tự tự nhiên này ắp đầy ân sủng cứu chuộc của Chúa Giêsu đến độ “một hợp đồng hôn phối thành sự không thể tồn tại nơi những người đã được thánh tẩy mà thật ra lại không phải là một bí tích”[23]. Hội thánh có thể đòi phải cử hành đám cưới công khai, với sự hiện diện của các nhân chứng và những điều kiện khác đã thay đổi theo dòng thời gian, nhưng đòi hỏi ấy vẫn không đánh mất sự kiện này là hai người cưới nhau chính là thừa tác viên của bí tích. Đòi hỏi ấy cũng không ảnh hưởng đến tính trọng tâm của lời ưng thuận hai người trao cho nhau, lời ấy tự nó làm nên sự ràng buộc bí tích. Ta đã nói rồi là cần phải suy nghĩ nhiều hơn về hành động của Thiên Chúa trong nghi lễ hôn nhân; hành động ấy được thể hiện rõ trong các Hội thánh Đông phương nhờ tầm quan trọng của việc chúc lành đôi bạn lãnh nhận như dấu chỉ ân huệ của Thần khí.

Hạt giống Lời và những hoàn cảnh bất toàn

  1. “Tin mừng về gia đình cũng nuôi dưỡng các hạt giống vẫn đang chờ mọc lên và vẫn phục vụ như nền tảng cho việc chăm sóc những cây đang khô héo và không bị từ bỏ”[24]. Vì thế, khi xây dựng ân huệ của Đức Kitô trong bí tích, ta phải “kiên trì dẫn đưa các vợ chồng tiếp tục đi xa hơn để họ đạt được một sự hiểu biết sâu xa hơn và hội nhập trọn vẹn hơn vào trong mầu nhiệm này trong đời sống họ”[25].
  2. Dựa vào giáo huấn của Kinh thánh dạy rằng mọi sự đều được tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô (x. Col 1, 16), các Nghị phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “trật tự cứu chuộc làm sáng tỏ và hoàn tất trật tự tạo thành. Vì thế, ta chỉ hiểu được cách đầy đủ hôn nhân tự nhiên dưới ánh sáng của sự hoàn tất cuộc hôn nhân ấy trong bí tích hôn phối: chỉ trong việc chiêm ngắm Đức Kitô người ta mới hiểu được sự thật sâu thẳm nhất về các mối tương quan của con người. “Mầu nhiệm con người chỉ sáng tỏ trong mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời… Đức Kitô, Adam mới, nhờ mặc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu Ngài, cũng mặc khải trọn vẹn con người cho con người và làm rõ lời kêu gọi tối thượng của Ngài’ (Gaudium et Spes, 22). Theo nguyên tắc qui Kitô căn bản này, hiểu được sự tốt lành của hôn nhân (bonum coniugum)”[26], gồm sự hợp nhất, mở ra cho sự sống, thủy chung, bất khả phân ly và, trong hôn nhân Kitô giáo, việc nâng đỡ nhau trên đường tiến tới sự hiệp thông hoàn toàn với Chúa là điều vô cùng hữu ích. “Việc nhận ra sự hiện diện của ‘các hạt giống Lời’ trong các nền văn hóa khác (x. Ad Gentes 11) cũng có thể áp dụng cho thực tại hôn nhân và gia đình. Ngoài cuộc hôn nhân tự nhiên đích thật, vẫn còn những yếu tố tích cực tồn tại dưới những hình thức hôn nhân tìm được, dù có lúc mơ hồ, trong các truyền thống tôn giáo khác”[27]. Ta có thể nói ngay rằng “bất cứ ai muốn đưa vào trong thế giới này một gia đình biết dạy con cái ham thích mọi động thái nhắm đến việc chiến thắng sự dữ – một gia đình chứng tỏ rằng Thần khí đang sống và hoạt động – đều nhận được lòng biết ơn và trân trọng của ta. Bất kể họ thuộc dân tộc, tôn giáo hay vùng nào!”[28]
  3. “Ánh sáng của Đức Kitô chiểu tỏa trên mọi người (x. Ga 1, 9; Gaudium et Spes, 22). Nhìn các sự việc bằng con người mắt của Đức Kitô bao giờ cũng khơi lên việc chăm sóc mục vụ đối với các tín hữu, những người đang sống với nhau hay chỉ lấy nhau về mặt dân sự hoặc đã ly dị và tái hôn. Theo phương pháp sư phạm của Thiên Chúa, Hội thánh với tình yêu thương, luôn hướng đến những ai tham dự vào đời sống của mình cách bất toàn: Hội thánh tìm kiếm ơn hoán cải cho họ; khuyến khích họ làm điều tốt, ân cần chăm sóc nhau và phục vụ cộng đoàn nơi họ đang sống và làm việc… Khi một đôi bạn nào trong sự kết hợp bất thường, đạt được một sự ổn định đáng đế ý nhờ một sự ràng buộc công khai nào đó – và được đánh dấu bằng một tình cảm sâu đậm, bằng trách nhiệm đối với con cái và khả năng khắc phục những khó khăn – ta có thể coi đây là một cơ hội, và ở đâu có thể, thì đưa họ tới chỗ cử hành bí tích hôn phối”[29].
  4. “Khi đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn và những gia đình thương tích, nhắc lại nguyên tắc sau: ‘ Các mục tử phải biết rằng, vì sự thật, họ buộc phải phân biệt rõ các hoàn cảnh’ (Familiaris Consortio, 84), bao giờ cũng là điều cần thiết. Mức độ trách nhiệm không phải lúc nào cũng như nhau và các sự kiện tồn tại bao giờ cũng giới hạn khả năng đưa ra quyết định. Vì thế, trong khi vẫn tuyên bố rõ giáo huấn của Hội thánh, các mục tử phải tránh những xét đoán nào không cân nhắc sự phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau, và nhất thiết phải để ý xem người ta đang cảm nghiệm và chịu đựng đau khổ ra sao trong hoàn cảnh của họ”[30]

Việc truyền sinh và nuôi dạy con cái

  1. Hôn nhân trước tiên là một “việc cộng thông sự sống và tình yêu”[31] là một sự tốt lành cho chính vợ chồng[32], trong khi giới tính “được ban cho tình yêu phu thê của người nam và người nữ”[33]. Theo đó, “vợ chồng nào Thiên Chúa không ban con cái cho vẫn có thể có một đời sống lứa đôi đầy ý nghĩa cả theo quan niệm con người lẫn Kitô giáo”[34]. Nhưng, sự kết hợp vợ chồng, “do tự bản chất của nó”[35], được ban là để sinh con. Người con được sinh ra “không xuất phát từ bên ngoài như một cái gì đó được thêm vào cho tình yêu thương nhau của vợ chồng, mà xuất phát từ chính cốt lõi của việc trao ban cho nhau, là kết quả và sự hoàn tất của sự trao ban ấy”[36]. Người con ấy không xuất hiện vào cuối tiến trình mà hiện diện ngay từ lúc khởi sự của tình yêu như một đặc tính quan trọng, một sự hiện diện không thể khước từ nếu không muốn bóp méo chính tình yêu. Ngay từ đầu, tình yêu bao giờ cũng khước từ mọi thôi thúc muốn khép lại nơi chính mình; tình yêu bao giờ cũng mở ra cho sự sinh sản, một sự sinh sản lôi kéo tình yêu vượt ra khỏi chính mình. Vì thế, không một hoạt động tình dục nào của vợ chồng có thể phủ nhận ý nghĩa này[37], cả khi vì những lý do khác nhau hành vi ấy trên thực tế không phải lúc nào cũng sinh ra sự sống mới.
  2. Con cái đáng được sinh ra từ tình yêu ấy, và không phải bằng bất cứ phương tiện nào, vì “em không phải là một của nợ mà là một quà tặng”[38], là “hoa trái của hành vi đặc biệt của tình phu phụ của cha mẹ”[39]. Đây là trường hợp duy nhất vì “theo trật tự tạo thành, tình nghĩa vợ chồng giữa người nam và người nữ và việc truyền sinh được chỉ thị cho con người (x. St 1, 27 – 28). Như thế Tạo Hóa tạo dựng người nam và người nữ để họ tham dự vào công cuộc tạo thành của Ngài và đồng thời biến họ thành những công cụ của tình yêu, khi ủy thác cho họ trách nhiệm về tương lai của nhân loại, nhờ việc chuyển giao sự sống con người”[40].
  3. Các Nghị phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng “rõ ràng đang có sự phát triển não trạng muốn hạ việc sinh sản sự sống con người xuống thành một cái gì đó có thể thay đổi trong kế hoạch của cá nhân hay đôi bạn”[41]. Giáo huấn của Hội thánh luôn nhằm “giúp đôi bạn kinh nghiệm được sự hiệp thông với tư cách là vợ chồng cách hoàn toàn, hòa hợp và ý thức, cùng với trách nhiệm của họ đối với việc sinh sản. Ta cần trở về với sứ điệp của Thông điệp Humanae Vitae của chân phước Phaolô VI, một sứ điệp nhấn mạnh đến nhu cầu tôn trọng phẩm giá của con người trong việc đánh giá về mặt luân lý các phương pháp hạn chế sinh sản… Việc chọn nhận con nuôi hay nhận nuôi con cái có thể cũng diễn tả sự sinh sản ấy là một đặc điểm của đời sống hôn nhân”[42]. Với lòng biết ơn đặc biệt, Hội thánh “nâng đỡ các gia đình nào chấp nhận, nuôi dưỡng và bao bọc trong tình yêu thương những người con bị những dị tật khác nhau”[43].
  4. Ở đây, tôi thấy cần nói ngay rằng, nếu gia đình là cung thánh của sự sống, là nơi sự sống được cưu mang và chăm sóc, thì thật là một mâu thuẫn khủng khiếp khi gia đình trở thành nơi sự sống bị rẫy từ và hủy hoại. Giá trị của sự sống con người rất lớn, quyền được sống của trẻ em vô tội lớn lên trong lòng mẹ bất khả chuyển nhượng đến độ không một quyền nào người ta có được đối với thân xác mình có thể biện minh cho quyết định chấm dứt sự sống ấy, một sự sống tự nó là quan trọng, và không bao giờ được coi là “tài sản” của người khác. Gia đình bảo vệ sự sống con người trong mọi giai đoạn của sự sống ấy, kể cả giai đoạn cuối cùng. Vì thế, “những ai làm việc trong ngành y đều được nhắc cho biết bổn phận được phản đối theo lương tâm về mặt luân lý. Cách tương tự, Hội thánh không chỉ cảm thấy phải gấp rút khẳng định quyền được chết tự nhiên, không phải trải qua điều trị tấn công và cái chết êm dịu”, mà còn “cương quyết dẹp bỏ án tử hình”[44].
  5. Các Nghị phụ Thượng Hội Đồng cũng muốn nhấn mạnh rằng “một trong những thách thức căn bản các gia đình hiện đang phải đương đầu chắc chắn là việc nuôi dạy con cái, những thách thức ấy lại bị thực tại văn hóa hôm nay và ảnh hưởng mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông làm cho khó khăn và phức tạp hơn”[45]. “Hội thánh đảm nhận vai trò giá trị trong việc nâng đỡ các gia đình, khởi đầu với các gia đình Kitô giáo nhờ các cộng đoàn tiếp nhận”[46]. Đồng thời tôi cũng cảm thấy cần phải nhắc lại rằng nền giáo dục toàn diện cho trẻ em là một “bổn phận quan trọng nhất” và đồng thời cũng là “quyền đầu tiên” của cha mẹ[47]. Đây không chỉ là một nhiệm vụ hay một gánh nặng mà là quyền chủ yếu và bất khả nhượng các cha mẹ được kêu gọi bảo vệ, một quyền mà không ai được phép bảo mình có quyền tước mất của họ. Chính quyền đưa ra các chương trình giáo dục theo cách bổ trợ, bằng cách nâng đỡ các cha mẹ trong vai trò không thể suy tàn này; các cha mẹ được hưởng quyền chọn loại hình giáo dục – có thể tiếp cận và có chất lượng cao – họ muốn cho con cái họ theo xác tín của mình. Các trường học không thay thế cha mẹ, mà chỉ hỗ trợ họ. Nguyên tắc căn bản là: “mọi tham dự viên khác trong tiến trình giáo dục chỉ có thể thực hiện trách nhiệm của mình nhân danh cha mẹ, với sự đồng ý của cha mẹ và ở một mức độ nào đó, với sự ủy quyền của cha mẹ”[48]. Nhưng, “hiện đang có một rạn nứt giữa gia đình và xã hội, giữa gia đình và học đường; hiệp ước giáo dục hôm nay đã bị phá vỡ và vì thế sự kết hợp giữa gia đình và xã hội đang bị khủng hoảng”[49].
  6. Hội thánh được kêu gọi cộng tác với cha mẹ nhờ những sáng kiến mục vụ thích hợp, trợ giúp họ trong việc hoàn tất sứ mạng giáo dục của họ. Hội thánh phải luôn làm việc này bằng cách giúp họ đánh giá đúng vai trò riêng của họ và giúp họ nhận ra rằng nhờ lãnh nhận bí tích hôn phối họ trở thành các thừa tác viên đối với việc giáo dục con cái mình. Trong việc giáo dục con cái này, họ xây dựng Hội thánh[50] và khi xây dựng Hội thánh như thế họ cũng chấp nhận ơn gọi Thiên Chúa ban[51].

Gia đình và Hội thánh

  1. “Với niềm hân hoan bên trong và niềm an ủi sâu xa, Hội thánh hướng đến các gia đình vẫn còn trung thành với giáo huấn của Tin mừng, khích lệ họ và cám ơn họ vì  các chứng tá họ làm được. Vì họ đang làm chứng cách uy tín cho vẻ đẹp của hôn nhân vô phương tháo gỡ và trung thành mãi mãi. Trong gia đình ‘có thể được gọi là Hội thánh tại gia’ (Lumen Gentium, 11), các cá nhân bắt đầu một kinh nghiệm của Hội thánh về sự hiệp thông nơi các ngôi vị, một sự hiệp thông phản ánh mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nhờ ân sủng. “Ở đây người ta học được khả năng chịu đựng và niềm vui của việc làm, học được tình huynh đệ,– cũng cần nhắc lại –  sự tha thứ quảng đại và nhất là việc thờ phượng Thiên Chúa và việc hiến trao cuộc đời” (Giáo lý của Hội thánh Công giáo, 1657)”[52].
  2. Hội thánh là một gia đình của các gia đình, không ngừng được phong phú nhờ đời sống của các Hội thánh tại gia. “Nhờ bí tích hôn phối, mọi gia đình đều trở thành một sự tốt lành cho Hội thánh cách hữu hiệu. Từ quan điểm này, việc suy nghĩ về tác động giữa gia đình và Hội thánh sẽ là một món quà quí giá cho Hội thánh trong thời đại ta. Hội thánh rất hữu ích đối với các gia đình và gia đình cũng hữu ích đối với Hội thánh. Việc bảo vệ ơn Chúa trong bí tích hôn phối này là một bận tâm không chỉ của các gia đình riêng rẽ mà còn của toàn cộng đoàn Kitô hữu”[53].
  3. Kinh nghiệm về tình yêu trong các gia đình là một nguồn sức mạnh vô tận cho đời sống của Hội thánh. “Cứu cánh hợp nhất của hôn nhân là một lời kêu gọi không ngừng làm cho tình yêu này phát triển và sâu sắc hơn. Nhờ sự hợp nhất trong tình yêu, đôi bạn kinh nghiệm được vẻ đẹp của việc làm cha, làm mẹ và chia sẻ những kế hoạch, những thử thách, hy vọng và âu lo; họ học cách chăm sóc nhau và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu này, họ cử hành những giây phút hạnh phúc và nâng đỡ nhau trong những nẻo đường khác nhau của cuộc sống chung… Vẻ đẹp của việc trao hiến nhưng không cho nhau này, niềm hân hoan xuất phát từ một sự sống được sinh ra và việc yêu thương chăm sóc của mọi thành viên của gia đình – từ già đến trẻ – chỉ là một ít trái trăng làm cho việc đáp lại ơn gọi gia đình thành độc nhất vô nhị và bất khả thay thế”[54] cho toàn Hội thánh và toàn xã hội.

Linh mục Đaminh Nguyễn Đức Thông, C.Ss.R. chuyển ngữ

(còn tiếp)

Chú thích

[1] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 35: AAS 105 (2013), 1034.

[2] Ibid., 164: AAS 105 (2013), 1088

[3] Ibid, 165: AAS 105 (2013), 1089.

[4] Ibid. 165: AAS 105 (2013), 1089.

[5] Relatio Synodi 2014, 12.

[6] Ibid, 14

[7] Ibid., 16.

[8] Relatio Finalis 2015, 41.

[9] Ibid., 38.

[10] Relatio Synodi 2014, 17.

[11] Relatio Finalis 2015, 43.

[12] Relatio Synodi 2014, 18.

[13] Relatio Finalis 2015, 38.

[14] Relatio Finalis 2015, 38.

[15] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn,  Familiaris Consortio (22 November 1981), 13: AAS 74 (1982), 94.

65 Relatio Synodi 2014, 21.

[16] Giáo Lý của Hội thánh Công giáo, 1642.

[17] Ibid.

[18] Ibid.

[19] Ibid

[20] Đức Lêô Cả, Epistula Rustico Narbonensi Episcopo, Inquis. IV: PL 54, 1205A; cf. hincmar of rheims, Epist. 22: PL 126, 142.

[21] Cf. Đức XII, Tông huấn,  Mystici Corporis Christi (29 June 1943): AAS 35 (1943), 202: “Matrimonio enim quo coniuges sibi invicem sunt ministri gratiae …”

[22] Cf. Bộ Giáo luật, cc. 1116; 1161-1165; Bộ Giáo luật Hội thánh Đông phương, 832; 848-852.

[23] Ibid., c. 1055 §2.

[24] Relatio Synodi 2014, 23.

[25]   Đức Gioan Phao lô II, Tông huấn Familiaris Consortio (22 November 1981), 9: AAS 74 (1982), 90.

[26] Ibid.

[27] Bài Giảng Trong Thánh Lễ Bế Mạc Hội Nghị Thế Giới Về Gia Đình Tại Philadelphia (27 September 2015): L’Osservatore Romano, 28-29 September 2015, p. 7.

[28] Relatio Finalis 2015, 53-54.

[29] Ibid., 51.

[30] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Hội thánh trong Thế giơi Hôm nay Gaudium et Spes, 48.

[31] Cf. Bộ Giáo luật, c. 1055 § 1: “ad bonum coniugum atque ad prolis generationem et educationem ordinatum”.

[32] Giáo lý Hội thánh Công giáo, 2360.

[33] Ibid., 1654.

[34] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Hội thánh trong Thế giơi Hôm nay Gaudium et Spes, 48.

[35] Giáo lý Hội thánh Công giáo, 2366.

[36] Cf. Đức PhaolôVI, Thông điệp  Humanae Vitae (25 July 1968), 11-12: AAS 60 (1968), 488-489.

[37] Cf. Đức PhaolôVI, Thông điệp  Humanae Vitae (25 July 1968), 11-12: AAS 60 (1968), 488-489.

[38] Giáo lý Hội thánh Công giáo, 2378.

[39] Thánh bộ Đạo lý Đức tin, Huấn thị Donum Vitae (22 February 1987), II, 8: AAS 80 (1988), 97.

[40] Relatio Finalis 2015, 63.

[41] Relatio Synodi 2014, 57

[42] Ibid., 58.

[43] Ibid., 57.

[44] Relatio Finalis 2015, 64.

[45] Ibid., 61

[46] Relatio Synodi 2014, 60.

[47] Bộ Giáo luật, c. 1136; cf. Bộ Giáo luật của các Hội thánh Đông phương, 627.

[48] Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia đình, The Truth and Meaning of Human Sexuality (8 December 1995), 23.

[49] Catechesis (20 May 2015): L’Osservatore Romano, 21 May 2015, p. 8.

[50] Đức Gioan Phao lô II, Tông huấn  Familiaris Consortio (28 November 1981) 38: AAS 74 (1982), 129.

[51] Cf. Address to the Diocesan Conference of Rome (14 June 2015): L’Osservatore Romano, 15-16 June 2015, p. 8.

[52] Relatio Synodi 2014, 23.

[53] Relatio Finalis 2015, 52.

[54] Ibid., 49-50.

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube