TÔNG HUẤN "AMORIS LAETITIA" (Chương VII: các số 259 - 290)

CHƯƠNG VII

HƯỚNG TỚI MỘT NỀN GIÁO DỤC TỐT HƠN CHO CON CÁI

  1. Cha mẹ luôn có ảnh hưởng trên sự phát triển luân lý của con cái, hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn. Vì thế, họ phải đảm nhận vai trò chủ yếu này và thực hiện vai trò ấy cách ý thức, nhiệt tình, hợp lý và thích hợp. Vì vai trò giáo dục của các gia đình rất quan trọng, và ngày càng phức tạp, nên tôi xin được bàn chi tiết về việc này.

Con cái chúng ta đang ở đâu?

  1. Các gia đình không thể là gì khác mà chỉ là những nơi nâng đỡ, hướng dẫn và định hướng, tuy nhiên họ có thể suy nghĩ lại về các phương pháp và khám phá ra các tài nguyên mới. Các cha mẹ cần xem xem họ muốn con cái họ bộc lộ những gì, và như thế nhất thiết phải xem ai là người cung cấp sự giải trí, ai đang bước vào phòng chúng nhờ tivi hay các thiết bị điện tử và lúc rảnh rỗi chúng thường chơi với ai. Nếu ta biết dành thời gian cho con cái, nói về những điều quan trọng cách đơn sơ và quan tâm lo lắng và tìm ra những cách thức lành mạnh để chúng sử dụng thời gian, thì ta có thể che chở chúng khỏi những nguy hại. Tỉnh thức bao giờ cũng cần thiết và hờ hững chẳng bao giờ có lợi. Cha mẹ phải giúp các con thơ và niên thiếu của mình đương đầu với nguy cơ bị tấn công, lạm dụng hay nghiện ngập, chẳng hạn.
  2. Tuy nhiên, ám ảnh không phải là giáo dục. Ta không thể kiểm soát mọi tình huống con mình có thể trải qua. Ở đây vẫn còn đúng là “thời gian quan trọng hơn không gian”[1]. Nói cách khác, khởi đầu những tiến trình quan trọng hơn cai trị không gian. Nếu cha mẹ luôn bị ám ảnh bởi việc phải biết con mình đang ở đâu và nhất cử nhất động của chúng đều ở trong tầm ngắm của mình, họ sẽ chỉ tìm cách cai trị không gian. Nhưng đây không phải là cách giáo dục, tăng cường sức mạnh và chuẩn bị cho con cái đương đầu với thách thức. Điều quan trọng hơn là khả năng yêu thương giúp con cái lớn lên trong tự do, trưởng thành và tự lập đích thật. Chỉ cách này con cái mới đi đến chỗ có được vốn liếng cần thiết để tự liệu và hành động cách khôn ngoan và thông minh bất cứ khi nào chúng đụng phải khó khăn. Vậy thắc mắc thật không phải con mình đang ở đâu về mặt thể lý hay đang ở với ai lúc ấy, mà con mình đang ở đâu về mặt hiện sinh, đang ở đâu trong các xác tín, mục đích, khát vọng và mơ ước của chúng. Câu hỏi cha đặt ra cho các cha mẹ là: “Các con có tìm cách hiểu con cái mình đang thực sự ở “đâu” trong cuộc hành trình của chúng? Ta có biết thật linh hồn chúng đang ở đâu không? Và nhất là, ta có muốn biết không?[2]
  3. Nếu trưởng thành chỉ là phát triển một cái gì đó đã có rồi trong mã di truyền của ta, thì chẳng phải làm gì nhiều. Nhưng sự khôn ngoan, phán đoán tốt và ý thức chung không thuần túy lệ thuộc vào các dữ kiện phát triển về lượng, mà vào hàng loạt sự việc cùng xảy ra thật sâu trong mỗi người, hay đúng hơn, xảy ra tại chính cốt lõi của tự do. Chắc chắn, mỗi trẻ em sẽ làm ta ngạc nhiên vì những ý tưởng và chương trình xuất phát từ tự do ấy, một thứ tự do thách thức ta suy nghĩ lại các ý tưởng của ta. Đây là điều tốt. Giáo dục bao gồm khích lệ việc sử dụng tự do cách có trách nhiệm để nhìn các vấn đề cách ý thức rõ và thông minh. Giáo dục đòi hỏi việc đào tạo con người sẵn sàng hiểu rằng cuộc sống của riêng ta và cuộc sống của cộng đoàn, nằm trong tay những người ấy và tự do tự nó là một quà tặng quan trọng.

Việc đào tạo đạo đức cho con cái

  1. Cha mẹ dựa vào các trường học để bảo đảm việc dạy dỗ căn bản cho con cái mình, nhưng không bao giờ có thể hoàn toàn giao phó con cái mình cho người khác. Việc phát triển tình cảm và đạo đức của con người được xây dựng cách căn bản trên một kinh nghiệm đặc biệt nghĩa là, trên việc con cái có thể tin tưởng cha mẹ. Điều này có nghĩa là cha mẹ, với tư cách là các nhà giáo dục, chịu trách nhiệm gieo vào trong con cái mình sự tin tưởng và tôn trọng yêu thương nhờ tình cảm và gương sáng của mình. Khi vì mọi lỗi lầm của mình, con cái không còn cảm thấy chúng quan trọng đối với cha mẹ chúng hay cha mẹ chúng quan tâm tới chúng thật, thì cảm giác này sẽ tạo nên vết thương sâu hoắm và đường tới trưởng thành sẽ gập gềnh gian khổ. Sự vắng mặt về thể lý hay tình cảm còn tạo nên thương tích nặng hơn mọi lời chửi bới có thể con cái phải chịu khi làm những điều sai trái.
  2. Cha mẹ cũng chịu trách nhiệm về việc hình thành ý chí của con cái, nuôi dưỡng các thói quen tốt và khuynh hướng tự nhiên hướng đến sự tốt lành. Điều này đòi phải đưa ra một số cách suy nghĩ và hành động đáng mơ ước và đáng giá, như một phần của tiến trình phát triển từ từ. Khát vọng muốn có ích cho xã hội, hay thói quen từ bỏ một niềm vui trước mắt vì cuộc sống trật tự và tốt đẹp hơn tự nó là một giá trị sau này có thể giúp mở ra cho những giá trị quan trọng hơn. Việc đào tạo luân lý bao giờ cũng phải thực hiện với những phương pháp chủ động và một cuộc đối thoại dạy bằng tri giác và bằng việc sử dụng thứ ngôn ngữ trẻ em có thể hiểu. Việc đào tạo ấy cũng nên thực hiện bằng phương pháp qui nạp để các em có thể học được tầm quan trọng của một số giá trị, nguyên tắc và qui tắc cho mình, chứ không áp đặt những nguyên tắc hay giá trị ấy như các chân lý tuyệt đối và không thể nghi ngờ.
  3. Làm điều đúng muốn nói tới một cái gì đó hơn hẳn “việc xem coi cái gì có vẻ tốt nhất” hay biết rõ những gì cần phải làm quan trọng như thế nào.

Trong các xác tín của mình, ta thường chứng minh là trước sau như một, tuy nhiên, các xác tín ấy có thể không  vững; cả khi lương tâm ta đưa ra một quyết định luân lý rõ ràng, những dữ kiện khác đôi khi cũng chứng tỏ hấp dẫn và uy lực hơn. Ta phải đi tới chỗ sự thiện lý trí ta hiểu thấu có thể cắm rễ sâu trong ta như một khuynh hướng tình cảm sâu xa, như một sự thèm khát sự thiện hơn hẳn các hấp dẫn khác và giúp ta nhận ra rằng điều ta coi khách quan là tốt thì cũng tốt “cho ta” tại đây, lúc này. Một nền giáo dục đạo đức tốt bao gồm việc cho thấy một người mà việc làm điều thiện nằm ngay trong sở thích của người ấy. Ngày nay, càng ngày càng khó đòi hỏi một điều gì đó cần đến nỗ lực và hy sinh, nhưng lại không cho thấy rõ những lợi ích việc ấy có thể đem lại.

  1. Các thói quen tốt cần được phát huy. Cả những thói quen thời thơ ấu cũng có thể giúp đưa các giá trị quan trọng đã được nội tâm hóa vào trong các cách hành động lành mạnh và đều đặn. Một người nào đó có thể có tính xã hội và mở ra cho tha nhân, nhưng nếu suốt một giai đoạn dài không được người lớn dạy nói “làm ơn”, “cám ơn” và “xin lỗi” thì khuynh hướng tốt trong người ấy sẽ không dễ bật lên. Việc tăng cường ý chí và lặp đi lặp lại những hành động đặc biệt là khối đá xây dựng thái độ luân lý; không có việc lặp đi, lặp lại cách ý thức, tự do và mến chuộng một số mẫu ứng xử tốt, việc giáo dục luân lý không xảy ra. Ước muốn suông và sự hấp dẫn của một giá trị nào đó, chưa đủ để làm cho một nhân đức thấm vào nơi không có những hành động được khuyến khích đúng mức.
  2. Tự do là một cái gì đó tuyệt diệu, nhưng nó cũng có thể bị tan biến và đánh mất. Nền giáo dục luân lý phải có liên quan tới việc vun trồng tự do nhờ các ý tưởng, động cơ, các áp dụng cụ thể, các nhân tố kích thích, phần thưởng, gương sáng, khuôn mẫu, biểu tượng, suy tư, khích lệ, đối thoại và không ngừng suy nghĩ đi nghĩ lại về cách làm việc của ta; tất cả những thứ ấy có thể giúp phát huy các nguyên tắc nội tâm bền vững đưa ta tới chỗ làm việc thiện cách tự phát. Nhân đức là một xác tín đã trở nên nguyên tắc hoạt động nội tâm. Vì thế, đời sống nhân đức luôn xây dựng, làm vững mạnh và định hướng cho tự do, để ta khỏi trở thành nô lệ cho những khuynh hướng phi nhân và phản xã hội. Phẩm giá con người tự nó đòi hỏi mỗi chúng ta phải “hành động vì chọn lựa ý thức và tự do, đã được đánh động và cuốn hút cách riêng tư từ bên trong”[3].

Giá trị của việc trừng phạt như một sự khích lệ

  1. Cũng cũng là điều quan trọng khi giúp trẻ thơ và thanh thiếu niên nhận ra rằng hạnh kiểm xấu bao giờ cũng có hậu quả. Ta cần khích lệ các em đặt mình vào địa vị của người khác và nhận ra nỗi đau các em đã gây ra. Một số hình phạt – những hình phạt dành cho thái độ hung hăng, khó gần – có thể phần nào phục vụ cho mục vụ này. Điều quan trọng là kiên trì huấn luyện các em biết xin tha thứ và sửa lại thiệt hại các em đã làm cho người khác. Khi tiến trình giáo dục này có kết quả trong việc phát triển tự do cá nhân, các em bắt đầu đánh giá đúng rằng lớn lên trong một gia đình và ngay cả chịu đựng những đòi hỏi mọi tiến trình đào tạo đưa ra là điều tốt.
  2. Trừng phạt cũng là một khích lệ khi các cố gắng của các em được trân trọng và nhìn nhận và khi chúng cảm nhận được sự tin tưởng nhẫn nại và kiên trì của cha mẹ. Con cái, những người được sửa dạy cách yêu thương luôn cảm thấy được quan tâm chăm sóc; vì các em cảm thấy mình là những người được người khác nhận ra tiềm năng của mình. Điều này không đòi cha mẹ phải hoàn thiện, nhưng phải có thể khiêm tốn nhìn nhận các giới hạn của mình và cố gắng cải thiện. Nhưng, một trong những điều con cái cần học nơi cha mẹ là không được để cho mình bị cuốn theo giận hờn. Ta phải sửa dạy người con làm điều sai trái, nhưng không bao giờ được đối xử với nó như kẻ thù hay như đối tượng để ta trút hết thất vọng lên, Người lớn cũng cần nhận ra rằng một số kiểu hành vi xấu nào đó thường có liên quan tới sự mỏng dòn và giới hạn tiêu biểu của giới trẻ. Thái độ thường nghiêng về hình phạt có hại và không giúp các em nhận ra một số hành động nghiêm trọng hơn các hành động khác. Điều này thường đưa tới chán nản và phẫn nộ: “Hỡi các bậc làm cha, đừng chọc giận con cái” (Ep 6, 4; x. Col 3, 21).
  3. Điều quan trọng là kỷ luật không được đưa tới chán nản, nhưng thay vào đó, phải là sự thúc đẩy tiến xa hơn. Làm thế nào để con cái nội tâm hóa kỷ luật cách tốt nhất? Ta phải làm sao để bảo đảm rằng kỷ luật là một giới hạn có tính xây dựng đặt trên hành động của con cái chứ không phải là một hàng rào ngăn chặn sự phát triển của chúng? Ta phải tìm ra sự quân bình giữa hai thái cực tai hại này. Một thái cực thường cố làm cho mọi sự xoay quanh những khát vọng của con; những người con như thế sẽ lớn lên với cảm thức về quyền chứ không với trách nhiệm của chúng. Thái cực khác lại thường tước mất của con cái ý thức về phẩm giá, về căn tính và các quyền của chúng, những người con này sẽ trở nên bị tràn ngập bởi bổn phận và nhu cầu thực hiện các ước muốn của người khác.

Chủ nghĩa hiện thực nhẫn nại

  1. Việc giáo dục luân lý đòi chỉ được yêu cầu con cái và người trẻ những việc gì không liên quan tới một sự hy sinh không cân xứng và chỉ đòi một mức độ cố gắng không đưa tới căm phẫn hay ép buộc. Thông thường, việc giáo dục luân lý được thực hiện nhờ đưa ra các bước nho nhỏ có thể hiểu, chấp nhận và cảm kích, trong khi vẫn bao hàm một hy sinh cân xứng. Nếu không, do đòi hỏi quá mức, chúng ta chẳng đạt được gì. Một khi trẻ em thoát khỏi quyền bính, chúng có thể sẽ không làm điều tốt nữa.
  2. Việc đào tạo đạo đức đôi khi không được tán thành, vì những kinh nghiệm về sự hờ hững, bực bội, thiếu tình cảm hay các khuôn mẫu nghèo nàn của cha mẹ. Các giá trị đạo đức bị liên kết với các hình ảnh tiêu cực về các cha mẹ hay các khiếm khuyết của người lớn. Vì lý do đó, ta phải giúp thanh thiếu niên vẽ lên các sự tương đương: để hiểu rằng các giá trị ấy đã được thể hiện tốt nhất trong một ít người mẫu mực, nhưng cũng được thể hiện cách bất toàn và ở những mức độ khác nhau nơi những người khác. Đồng thời, vì sự lưỡng lự của chúng có thể bị liên kết với những kinh nghiệm xấu, nên chúng cần sự giúp đỡ trong tiến trình chữa lành nội tâm và như thế cũng lớn lên trong khả năng hiểu và sống trong bình an với tha nhân và cộng đoàn lớn hơn.
  3. Trong khi đưa ra các giá trị, ta phải tiến hành từ từ, xem xét độ tuổi và khả năng của các em, chứ không đoán chừng, mà áp dụng các phương pháp cứng rắn hay uyển chuyển. Các đóng góp giá trị của khoa tâm lý và các khoa học giáo dục đã cho thấy rằng việc thay đổi thái độ của trẻ thường đòi một tiến trình từ từ, nhưng cũng cho thấy rằng ta cần khai thông và thúc đẩy tự do vì tự nó tự do không bảo đảm việc lớn lên trong trưởng thành. Sự tự do trong hoàn cảnh, tự do thật, đều bị giới hạn và bị tác động. Tự do không chỉ là khả năng chọn lựa những gì tốt cách hoàn toàn tự nhiên. Không phải lúc nào người ta cũng phân biệt đầy đủ giữa các hành vi “tự nguyện” và “tự do”. Một người nào đó có thể khao khát cách rõ ràng và tự nguyện một điều gì đó là xấu, nhưng khao khát ấy là kết quả của một đam mê không cưỡng lại được hay do một nền giáo dục nghèo nàn. Trong những trường hợp như thế, trong khi quyết định thì tự nguyện vì không đi ngược với xu hướng của khát vọng, nhưng quyết định ấy lại không tự do, vì trên thực tế, họ không thể chọn điều xấu ấy được. Ta thấy điều này trong trường hợp của những người nghiện ma túy. Khi họ muốn tiêm ma túy, họ muốn cách trọn vẹn, nhưng họ lại bị tác động đến độ lúc ấy không thể có được quyết định nào khác. Quyết định của họ tự nguyện nhưng không tự do. “Để họ tự do chọn” chẳng nghĩa lý gì, vì thực ra, họ không thể chọn được và đặt họ trước ma túy chỉ làm cho họ nghiện thêm. Họ cần sự giúp đỡ của người khác và tiến trình phục hồi.

Đời sống gia đình như một môi trường giáo dục

  1. Gia đình là trường học đầu tiên của các giá trị nhân bản, nơi ta học biết sử dụng tự do cách khôn ngoan. Một số khuynh hướng phát triển trong thời thơ ấu và ăn rễ sâu đến độ chúng tồn tại suốt đời, hoặc như những lôi cuốn tới một giá trị đặc biệt nào đó hoặc như một sự chống cự tự nhiên một số cách hành động. Nhiều người suy nghĩ và hành động theo một cách nào đó vì tưởng thế là đúng vì họ được học như thế, như thể do sự thấm dần, từ thuở ấu thơ: “Đó là cách tôi được dạy”. “Đó là những gì tôi đã học được”. Trong gia đình, ta cũng có thể học phê bình một số sứ điệp do nhiều phương tiện truyền thông gửi. Thật buồn vì phải nói rằng, một số chương trình truyền hình hay những hình thức quảng cáo thường có ảnh hưởng tiêu cực và cắt xén các giá trị đã được khắc sâu trong đời sống gia đình.
  2. Trong thời đại của ta, bị thống trị bởi stress và các tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng, một trong những nhiệm vụ quan trọng của gia đình là cung cấp một nền giáo dục trong hy vọng. Điều này không có nghĩa là không cho trẻ chơi với các thiết bị điện tử, nhưng tìm cách giúp các em phát triển khả năng phê phán chứ không nghĩ rằng tốc độ kỹ thuật số có thể áp dụng cho mọi sự trong cuộc sống. Trì hoãn các khát vọng không có nghĩa là khước từ chúng mà cách đơn giản là trì hoãn sự hoàn tất của chúng. Khi trẻ em hay thanh thiếu niên không được giúp đỡ để nhận ra rằng các em phải chờ một số việc, các em có thể trở nên bị ám ảnh muốn thỏa mãn các nhu cầu ấy ngay và phát triển nết xấu này là “muốn là phải có ngay”. Đây là một ảo tưởng lớn, một thứ ảo tưởng không ủng hộ mà làm suy yếu tự do. Trái lại, khi ta được dạy trì hoãn một số sự việc cho tới khi chín muồi, ta học được cách làm chủ mình và không dính bén với sự bốc đồng của ta. Khi trẻ nhận ra chúng phải chịu trách nhiệm về mình, thì sự tự trọng sẽ được phong phú hóa. Điều này cũng lần lượt dạy các em tôn trọng tự do của người khác. Rõ ràng, điều này không có nghĩa là mong trẻ hành động như người lớn nhưng cũng không có nghĩa là đánh giá thấp khả năng lớn lên trong trách nhiệm của các em. Trong một gia đình lành mạnh, tiến trình học tập này thường xảy ra nhờ những đòi hỏi do cuộc sống chung tạo nên.
  3. Gia đình là môi trường đầu tiên của việc xã hội hoá, vì đó là nơi đầu tiên ta học cách liên lạc với tha nhân, học lắng nghe và chia sẻ, nhẫn nại và bày tỏ lòng tôn trọng, giúp đỡ nhau và sống như một. Nhiệm vụ giáo dục là làm cho ta cảm thấy rằng thế giới và xã hội cũng là nhà mình; giáo dục huấn luyện ta cách sống chung trong đại gia đình này. Trong gia đình, ta học được sự gần gũi, chăm sóc và tôn trọng tha nhân. Ta thoát khỏi tình trạng chỉ biết mình cách tai hại và đi đến chỗ nhận ra rằng ta đang sống với những người khác sát bên ta, những người đáng cho ta quan tâm, đối xử tử tế và yêu thương. Không có khía cạnh hầu như tinh vi, chính yếu, hằng ngày của việc sống bên nhau này sẽ không có một mối quan hệ xã hội nào cả, tình cờ gặp nhau vào những lúc khác nhau trong ngày, quan tâm tới mọi sự ảnh hưởng tới ta, giúp nhau những chuyện nho nhỏ thông thường. Mỗi ngày, gia đình phải đưa ra những cách đánh giá và nhận thức mới về các thành viên của mình.
  4. Cũng trong gia đình, ta có thể suy nghĩ lại các thói quen ăn xài và hợp tác trong việc chăm sóc môi trường như ngôi nhà chung của mình. “Gia đình là tác nhân chính của sinh thái học toàn diện, vì gia đình là chủ thể có tính xã hội đầu tiên, gồm tóm nơi mình hai nguyên tắc căn bản của nền văn minh của con người trên mặt đất này: nguyên tắc hiệp thông và nguyên tắc sinh sản”[4]. Cũng thế, những lúc khó khăn, gian khổ trong cuộc sống gia đình có thể dạy những bài học quan trọng. Việc này xảy ra khi bệnh hoạn ập tới chẳng hạn, vì “khi đương đầu với bệnh hoạn, cả trong gia đình, vì sự yếu hèn của con người, khó khăn vẫn cứ nổi lên. Nhưng cách chung, thời gian bệnh hoạn luôn làm cho các mối quan hệ gia đình có thể bền chặt hơn… Nền giáo dục nào không khích lệ sự nhạy bén với bệnh hoạn của con người sẽ làm cho tâm hồn con người trở nên lạnh lùng; làm cho các bạn trẻ “vô cảm” trước khổ đau của tha nhân, mất khả năng đương đầu với đau khổ và kinh nghiệm về những giới hạn của mình”[5].
  5. Tiến trình giáo dục xảy ra giữa cha mẹ và con cái này có thể được trợ giúp hay cản trở vì sự ngụy biện ngày càng tăng của các phương tiện truyền thông và giải trí. Khi được sử dụng tốt, các phương tiện này có thể ích lợi cho việc liên kết các phần tử của gia đình đang sống xa cách nhau. Việc thường xuyên tiếp xúc giúp vượt qua khó khăn[6]. Nhưng, rõ ràng là các phương tiện này không thể thay thế nhu cầu cần có sự đối thoại đích thân và trực tiếp được, một cuộc đối thoại đòi phải có sự hiện diện thể lý hay ít ra cũng nghe được giọng nói của người kia. Ta biết rằng đôi khi các phương tiện ấy làm cho người ta xa cách hơn là gần gũi nhau, như khi vào lúc ăn tối mọi người đều ngồi lướt điện thoại di động hay khi vợ chồng đã buồn ngủ mà vẫn phải chờ người kia ngồi chơi các thiết bị điện tử. Đây cũng là điều các gia đình phải bàn bạc và giải quyết sao cho có thể khích lệ sự tương tác mà không áp đặt những cấm đoán thiếu thực tế. Trong bất cứ trường hợp nào, ta không thể coi thường các nguy hiểm mà các hình thức truyền thông mới đang khơi lên cho trẻ em và thanh thiếu niên; đôi khi các hình thức ấy nuôi dưỡng sự lãnh cảm và cắt đứt với thế giới thật. “Việc cắt đứt có tính kỹ thuật” này làm cho trẻ bị những người sẽ xâm phạm không gian riêng tư của các em bằng những lợi ích ích kỷ, thao túng.
  6. Hống hách cũng là điều không tốt đối với cha mẹ. Khi con cái bị buộc phải cảm thấy rằng chỉ được tin tưởng vào một mình cha mẹ thôi, thì việc này sẽ gây rắc rối cho tiến trình xã hội hóa đầy đủ và việc trưởng thành về mặt tình cảm. Để giúp mở rộng mối tương quan cha mẹ tới các thực tại rộng lớn hơn, “các cộng đoàn Kitô hữu được kêu gọi nâng đỡ sứ mạng giáo dục của các gia đình”[7] cách riêng nhờ khoa giáo lý liên quan tới việc khai tâm Kitô giáo. Để nuôi dưỡng một nền giáo dục toàn diện, ta cần “canh tân giao ước giữa gia đình và cộng đoàn Kitô hữu”[8]. Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của các trường học Công giáo, các trường “đang đóng một vai trò sống động trong việc trợ giúp các cha mẹ trong bổn phận nuôi dạy con cái của họ… Ta phải khuyến khích các trường Công giáo trong sứ mạng giúp học sinh trở thành những người trưởng thành, những người có thể nhìn thế giới này bằng tình yêu của Chúa Giêsu và có thể hiểu cuộc sống như một lời kêu gọi phụng sự Thiên Chúa”[9]. Vì lý do này, “Hội thánh mạnh mẽ khẳng định quyền tự do đưa ra giáo huấn của mình và quyền phản đối theo lương tâm của các nhà giáo dục”[10].

Nhu cầu giáo dục tình dục

  1. Công Đồng Vatican II nói về nhu cầu phải có “một nền giáo dục tình dục khôn ngoan và tích cực” phổ biến cho trẻ em và thanh thiếu niên, “khi chúng lớn lên”, với “việc nhấn mạnh đặc biệt tới các tiến bộ trong các khoa giáo huấn, sự phạm và tâm lý”[11]. Ta có thể tự hỏi không biết các cơ quan giáo dục của ta có mang lấy thách thức này không. Tiếp cận vấn đề giáo dục tình dục vào thời mà giới tính có khuynh hướng bị coi nhẹ và bần cùng hóa không dễ. Ta chỉ có thể nhìn việc giáo dục này trong khôn khổ lớn hơn của nền giáo dục về tình yêu, về việc hiến mình cho nhau. Theo cách ấy, ngôn ngữ giới tính sẽ không bị nghèo nàn cách thảm thương nhưng được khai sáng và phong phú hóa. Sự thúc đẩy về mặt tình dục có thể được định hướng nhờ tiến trình lớn lên trong việc biết mình và việc tự kiềm chế có thể nuôi dưỡng những khả năng giá trị để có được niềm vui và cuộc gặp gỡ yêu thương.
  2. Nền giáo dục tình dục phải cung cấp thông tin trong khi vẫn phải nhớ rằng trẻ em và những người trẻ chưa đạt được sự trưởng thành trọn vẹn. Thông tin này phải đến đúng lúc và theo cách phù hợp với tuổi của các em. Không ích gì khi nhồi nhét cho chúng tràn ngập các dữ kiện mà không giúp chúng phát huy cảm thức có tính phê phán khi đương đầu với sự công kích của các tư tưởng và gợi ý mới, với cơn hồng thủy của sự khiêu dâm và với lượng ào ạt những kích thích có thể làm cho giới tính bị dị dạng méo mó. Người trẻ cần nhận ra rằng mình đang bị oanh tạc bởi các sứ điệp không có lợi cho chúng trong việc lớn lên đến sự trưởng thành. Ta phải giúp chúng nhận ra và tìm ra những ảnh hưởng tích cực, trong khi vẫn tránh các sự việc làm lụn bại khả năng yêu thương. Ta cũng phải nhìn nhận rằng ta cần một thứ “ngôn ngữ mới và thích hợp hơn để đưa trẻ em và thanh thiếu niên tới chủ để về giới tính”[12].
  3. Nền giáo dục tình dục nào nuôi dưỡng cảm thức lành mạnh về sự e dè đều có được giá trị mênh mông, tuy nhiên, nhiều người hôm nay là coi e dè là tàn dư của thời kỳ đã qua. E dè là phương thế tự nhiên nhờ đó, ta bảo vệ sự riêng tư của ta và ngăn cản mình khỏi bị biến thành các đồ vật cho người ta sử dụng. Không có cảm thức e dè, tình cảm và giới tính có thể bị giảm xuống chỉ còn là nỗi ám ảnh về cơ quan sinh dục và những thái độ thiếu lành mạnh bóp méo khả năng yêu thương và ám ảnh về các hình thức chiếm đoạt giới tính bằng bạo lực đưa tới chỗ ứng xử phi nhân hoặc gây khổ đau cho người khác.
  4. Thường, việc giáo dục tình dục trước hết bàn về “việc bảo vệ” nhờ thực hành “an toàn tình dục”. Những cách diễn tả ấy truyền đạt một thái độ tiêu cực đối với hành động cuối cùng tự nhiên của giới tính là sinh sản, như thể con cái cuối cùng ra là kẻ thù phải chống lại vậy. Cách suy nghĩ này đề cao việc yêu mình và tính xâm lược tại nơi chấp nhận. Mời gọi thanh thiếu niên chơi đùa với thân xác và ước vọng của mình như thể chúng đã có được trưởng thành, các giá trị, việc cam kết với nhau và những mục đích dành triêng cho hôn nhân bao giờ cũng là vô trách nhiệm. Các em sẽ kết thúc bằng cách vô tình bị khuyến khích sử dụng người khác như một phương tiện để hoàn tất các nhu cầu hay giới hạn của mình. Điều quan trọng là dạy các em bén nhạy với các cách diễn tả tình yêu khác nhau, quan tâm và chăm sóc nhau, tôn trọng yêu thương và truyền thông cách ý nghĩa sâu sắc. Tất cả những điều này chuẩn bị cho các em có được sự hiến mình cách toàn diện và hào phóng, một sự hiến mình sẽ được diễn tả trong việc trao thân sau khi công khai cam kết. Như thế, việc kết hợp tình dục trong hôn nhân sẽ xuất hiện như một dấu chỉ của việc cam kết bao gồm mọi sự, được phong phú hóa nhờ mọi sự xảy ra trước đó.
  5. Ta không nên lừa dối người trẻ khiến họ lẫn lộn hai mức độ của thực tại: “Có lúc, sự hấp dẫn giới tính tạo nên ảo tưởng của sự kết hợp, nhưng không có tình yêu, “sự kết hợp” này làm cho những người xa lạ vẫn cứ xa lạ như trước”[13]. Ngôn ngữ thân xác đòi hỏi việc kiên trì thực tập trong việc học cách diễn tả và khai thông các khát vọng vì sự hiến mình đích thật. Khi ta dám cho hết mọi sự ngay lập tức, rất có thể ta đã chẳng cho gì. Hiểu người trẻ mỏng dòn và hoang dã thế nào có thể là một chuyện, nhưng hoàn toàn khuyến khích họ kéo dài sự ấu trĩ trong cách họ bày tỏ tình yêu lại là chuyện khác.

Nhưng ai sẽ nói về điều này bây giờ? Ai có khả năng coi trọng người trẻ đây? Ai giúp họ nghiêm túc chuẩn bị cho một tình yêu cao cả và quảng đại đây? Ở đâu người ta quan tâm tới việc giáo dục tình dục, ở đấy nền giáo dục ấy luôn bị lâm nguy.

  1. Nền giáo dục tình dục cũng nên bao hàm việc tôn trọng và đánh giá đúng các khác biệt, như một cách giúp người trẻ vượt quá tình trạng chỉ biết mình, mở ra cho và chấp nhận người khác. Ngoài những khó khăn có thể hiểu được các cá nhân có thể kinh nghiệm ra, người trẻ cần được giúp đỡ chấp nhận thân xác mình như đã được tạo dựng, vì “nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên thân xác mình thường vô tình đưa tới chỗ nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên tạo thành… Đánh giá đúng thân xác mình là nam là nữ cũng cần thiết để trong cuộc gặp gỡ tha nhân ta biết họ khác với ta. Vì thế, ta có thể hân hoan chấp nhận các quà tặng đặc biệt của người khác, là công trình của Đấng Hóa công và tìm được sự phong phú hóa nhau”[14]. Chỉ khi đánh mất nỗi sợ khác biệt, ta mới có thể được giải thoát khỏi tình trạng qui ngã và chỉ biết mình. Nền giáo dục tình dục phải giúp người trẻ chấp nhận thân xác họ và tránh việc muốn “hủy bỏ khác biệt giới tính vì người ta không còn biết giải quyết khác biệt ấy ra sao”[15].
  2. Ta cũng không thể bỏ qua sự kiện này là việc định hình thể cho kiểu hiện hữu của ta, hoặc nam hoặc nữ, cách đơn giản chỉ là kết quả của các dữ kiện sinh học hay di truyền, mà có nhiều yếu tố liên quan tới tâm tính, lịch sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm, giáo dục, ảnh hưởng của bạn bè, của các phần tử trong gia đình và những người đáng tôn trọng cũng như các hoàn cảnh đào tạo khác. Việc ta không thể tách nam tính và nữ tính ra khỏi công trình tạo dựng của Thiên Chúa, một công trình có trước mọi quyết định và kinh nghiệm của ta, và tại những nơi có các yếu tố sinh học ta không thể coi thường, là đúng. Nhưng nam tính và nữ tính không phải là những phạm trù cứng ngắc thì cũng đúng. Việc là người nam của chồng có thể thích nghi cách linh động với thời khóa biểu làm việc của vợ, chẳng hạn. Mang lấy những việc lặt vặt của gia đình hay một vài khía cạnh của việc nuôi dạy con cái không làm cho chồng ít nam tính hơn chút nào hay ám chỉ tới sự thất bại, vô trách nhiệm hoặc gây ra tủi nhục. Ta phải giúp trẻ chấp nhận là chuyện bình thường “những trao đổi” không giảm hạ phẩm giá của khuôn mặt người cha. Phương pháp cứng ngắc thường sẽ đi đến chỗ quá nhấn mạnh đến người nam hay người nữ và không giúp trẻ em và thanh thiếu niên đánh giá đúng sự hỗ tương đích thật vốn có trong những điều kiện thật của hôn nhân. Sự cứng ngắc như thế, sẽ lần lượt, gây trở ngại cho sự phát triển những khả năng của mỗi người, tới mức khiến họ nghĩ rằng kẻ miệt mài với nghệ thuật hay khiêu vũ, không phải là người nam thật và người nữ không được quyền lãnh đạo, chẳng hạn. Tạ ơn Thiên Chúa, suy nghĩ ấy đã thay đổi, nhưng tại một số nơi, những khái niệm khiếm khuyết vẫn còn tác động quan trọng lên những tự do hợp pháp và cản trợ sự phát triển đích thật của căn tính và tiềm năng đặc biệt của trẻ.

Việc truyền lại đức tin

  1. Việc nuôi dạy con cái đòi hỏi một tiến trình có trật tự trong việc truyền lại đức tin. Việc truyền lại đức tin này đang trở nên khó vì lối sống hiện nay, các thời khóa biểu làm việc và sự phức tạp của thế giới hôm nay, nơi nhiều người trẻ phải cố theo kịp bước điên cuồng chỉ để sống còn[16]. Cả khi ấy, gia đình cũng phải tiếp tục là nơi chúng ta học cách đánh giá đúng ý nghĩa và vẻ đẹp của đức tin, để ta học cầu nguyện và phục vụ đồng loại. Điều này bắt đầu với bí tích Thánh tẩy, trong đó, như thánh Augustino nói, các bà mẹ đưa con cái tới chỗ “hợp tác trong sự sinh hạ thánh thiêng”[17], như thế cũng là bắt đầu cuộc hành trình lớn lên trong đời sống mới đó. Đức tin là ơn Thiên Chúa ban, được đón nhận trong Thánh tẩy, chứ không phải công việc của ta, nhưng cha mẹ là phương tiện Thiên Chúa dùng để đức tin ấy lớn lên và phát triển. Do đó, “khi các bà mẹ dạy con thơ hôn kính Chúa Giêsu hay Đức Maria là điều rất đẹp. Trong nụ hôn ấy chất chứa bao nhiêu là tình! Lúc ấy tâm hồn em bé ấy trở thành nơi cầu nguyện”[18]. Truyền lại đức tin cho con cái giả thiết rằng chính cha mẹ thật lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, tìm kiếm Ngài và ý thức nhu cầu cần đến Ngài, vì chỉ khi ấy, thì “thế hệ này mới tán dương các công trình của Ngài cho thế hệ kia và loan báo các việc toàn năng của Ngài” (Is 38, 19). Điều này có nghĩa là ta cần xin Thiên Chúa hoạt động trong lòng ta, tại những nơi chính ta không thể đến được. Một hạt cải nhỏ xíu trở thành cây cao bóng cả (x. Mt 13, 31 – 32); điều này dạy ta thấy được sự mất cân đối giữa các hoạt động của ta và các kết quả của các hoạt động ấy. Ta biết rằng ta không có được ơn ấy, nhưng ơn ấy được ủy thác cho sự chăm sóc của ta. Nhưng việc dấn thân sáng tạo của ta tự nó chính là việc trao ban khiến ta có thể cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì lý do đó, “các vợ chồng và cha mẹ phải được trân trọng cách riêng như các tác nhân chủ động trong việc dạy giáo lý… Giáo lý gia đình rất hữu ích vì là một phương pháp hiệu quả trong việc huấn luyện các cha mẹ trẻ ý thức về sứ mạng của họ là những người phúc âm hóa của gia đình”[19].
  2. Việc giáo dục trong đức tin phải thích nghi với mỗi em, vì các tài nguyên và các cách thức xưa hơn không phải lúc nào cũng tác động. Trẻ cần các biểu tượng, hành động, và chuyện kể. Vì thanh thiếu niên thường có vấn đề với quyền bính và luật lệ, nên khích lệ kinh nghiệm đức tin của các em và cung cấp cho các em các chứng tá hấp dẫn, những chứng tá có vẻ đẹp chinh phục các em là tốt nhất. Cha mẹ ước mong nuôi dưỡng đức tin của con cái thường nhạy bén với các khuôn mẫu phát triển, vì họ biết rằng kinh nghiệm thiêng liêng không bao giờ được áp đặt mà chỉ được đề nghị cách tự do thôi.

Điều rất quan trọng  là phải làm sao để trẻ thấy rằng, đối với cha mẹ chúng, cầu nguyện là một cái gì đó thật quan trọng. Vì thế, những lúc cầu nguyện của gia đình và các hoạt động đạo đức có thể có tác động mạnh đối với việc phúc âm hóa hơn bất cứ lời giáo lý hay bài giảng nào. Ở đây, cha muốn nói lên lòng biết ơn đối với các bà mẹ đang không ngừng cầu nguyện, như thánh nữ Monica, cho con cái đang lạc xa Đức Kitô của mình.

  1. Việc truyền lại đức tin cho con cái, theo nghĩa làm cho cách diễn tả đức tin được dễ dàng và phát triển, luôn giúp toàn gia đình trong sứ mạng phúc âm hóa. Sứ mạng này bắt đầu trải rộng đức tin cách tự nhiên ra cho mọi người chung quanh, thậm chí cho cả những người ở ngoài gia đình. Con cái lớn lên trong các gia đình truyền giáo, thì chính các em cũng sẽ là các nhà tuyền giáo; lớn lên trong các gia đình ấm cúng và thân tình, các em học được cách liên hệ với thế giới theo cách này, mà không đánh mất đức tin và các xác tín của mình. Ta biết rằng chính Chúa Giêsu cũng đã ăn uống với những người tội lỗi (x. Mc 2, 16; Mt 11, 19), đã nói chuyện với người phụ nữ Samarita (x. Ga 45, 7 – 26), đã đón tiếp ông Nicodemo vào ban đêm (x. Ga 3, 1 – 21), đã để cho một cô gái điếm xức dầu lên chân mình (x. Lc 7, 36 – 50) và đã không ngần ngại đặt tay trên các bệnh nhân (x. Mc 1, 40 – 45; 7, 33). Các tông đồ cũng y như thế, không khinh miệt tha nhân hay co cụm lại thành các nhóm nhỏ và các nhóm người tinh hoa, đã không tách khỏi đời sống của dân mình. Tuy bị những người có quyền quấy rối, nhưng các ngài vẫn được “mọi người trong dân chúng quý mến” (Cv 2, 47; x. 4, 21, 33; 5, 13).
  2. “Như thế, gia đình là một nhân viên của hoạt động mục vụ nhờ việc công khai loan báo tin mừng và gia sản của việc loan báo ấy với mọi hình thức chứng tá, nghĩa là tình liên đới với người nghèo, cởi mở với sự đa dạng của con người, bảo vệ tạo thành, liên đới về luân lý và vật chất với các gia đình khác, kể cả những gia đình thiếu thốn nhất, dấn thân đề cao công ích và sự biến đổi các cơ chế bất công của xã hội, bắt đầu tại nơi gia đình đang sống, nhờ việc thực hành mười bốn mối thương người”[20]. Tất cả những điều này là việc diễn tả niềm tin Kitô giáo sâu xa của ta vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng luôn hướng dẫn và gìn giữ ta, một tình yêu được thể hiện trong sự toàn hiến cho Đức Giêsu Kitô, Đấng hiện vẫn đang sống giữa ta và giúp ta có thể cùng nhau đương đầu với bão táp của mọi lúc trong đời. Trong mọi gia đình, Tin mừng cần phải luôn âm vang lúc thuận, lúc nghịch, như một nguồn ánh sáng trên đường. Nhờ kinh nghiệm về đời sống trong gia đình, tất cả chúng ta đều phải có thể nói rằng: “Ta tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho ta” (1 Ga 4, 16). Chỉ trên nền tảng của kinh nghiệm này, việc chăm sóc mục vụ của Hội thánh đối với các gia đình mới có thể giúp các gia đình ấy thành Hội thánh tại gia và thành men phúc âm hóa trong xã hội.

Linh mục Đaminh Nguyễn Đức Thông, C.Ss.R. chuyển ngữ

 (còn tiếp)

[1] Tông huấn, Evangelii Gaudium (24.11.2013), 222: AAS 105 (1023), 1111.

[2] Giáo lý (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8

[3] Công Đồng Vatican II, Gaudium et Spes, 17.

[4] Giáo lý (30.9.2015), L’Osservatore Romano, 1.10. 2015, tr. 8.

[5] Giáo lý (10.7.2015), L’Osservatore Romano, 11.7.2115, tr. 8

[6] X. Relatio Finilis 2015, 67.

[7] Giáo lý (20.5.2015); L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr.8

[8] Giáo lý (9.9.2015); L’Osservatore Romano, 10.9.20125, tr.8

[9] Relatio Finalis 2015, 68.

[10] Ibid., 58.

[11] Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, Gravissinum Educationis, 1.

[12] Relatio Finalis 2015, 56.

[13] Erich Fromm, The Art of Loving, New York, 1956, tr. 54.

[14] Thông Điệp Laudato Si (24.5.2015), 155.

[15] Giáo lý (15.4.20150, L’Osservatore Romano, 26.4. 2015, tr.8

[16] X. Relatio Finalis 2015, 13 – 14.

[17] Agustino, De sancta virginitate 7,7,: PL 40, 400.

[18] Giáo lý (26.8.2015): L’Obsservatorw Romano, 27.8.2015, tr. 8

[19] Relatio Finalis 2015, 89.

[20] Ibid., 93.

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube