Dữ liệu thống kê của Niên giám Thống kê Giáo hội, đề cập đến năm 2017, cho phép chúng ta cập nhật một số khía cạnh chính về các con số của Giáo hội Công giáo trong bối cảnh toàn cầu.
Niên giám Thống kê Giáo hội 2017, được biên soạn bởi Văn phòng Thống kê Trung ương của Giáo hội
Niên giám Thống kê 2019 và Niên giám Thống kê Giáo hội 2017, do Văn phòng Thống kê Trung ương biên soạn, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Vatican, hiện đang được phân phối tại các nhà sách, Vatican công bố hôm 6 tháng 3 năm 2019.
Từ dữ liệu được báo cáo trong Niên giám Thống kê, chúng ta có thể rút ra những thông tin về đời sống của Giáo hội Công giáo trên toàn thế giới, bắt đầu từ năm 2018.
Trong thời kỳ này, bốn Tòa Giám mục mới đã được thiết lập, một Giáo phận được nâng lên hàng Tổng Giáo phận, bốn Hạt Phủ Doãn Tông Tòa được nâng lên hàng Giáo phận và một Hạt Giám Quản Tông Tòa được nâng lên hàng Giáo phận.
Dữ liệu thống kê của Niên giám Thống kê Giáo hội, đề cập đến năm 2017, cho phép chúng ta cập nhật một số khía cạnh chính về các con số của Giáo hội Công giáo trong bối cảnh toàn cầu.
Trong số dân số thế giới là 7,408 triệu người, 1.313 triệu người hoặc 17,7% là người Công giáo được rửa tội, nằm rải rác ở các lục địa: 48,5% ở châu Mỹ, 21,8% ở Châu Âu, 17,8% ở Châu Phi, 11,1% ở Châu Á và 0,8% ở Châu Đại Dương. Trong mối liên hệ giữa năm 2017 và năm 2016, các chỉ số tích cực về tốc độ tăng trưởng của người Công giáo đặc trưng cho tất cả các khu vực lãnh thổ: so với con số 1,1% trên thế giới, tỷ lệ biến động của Châu Phi và Châu Á lần lượt đạt +2,5% và + 1,5%; Châu Âu là lục địa duy nhất có xu hướng gần như bằng không (+ 0,1%) trong khi đối với châu Mỹ, tốc độ tăng trưởng (+ 0,96%) là dưới mức thế giới. Việc đọc dữ liệu theo lục địa của đối với con số tương đối của người Công giáo so với dân số vào năm 2017, nhưng những dữ liệu của năm trước về cơ bản là tương tự nhau, vì sự hiện diện của người Công giáo được phân biệt ở các khu vực địa lý khác nhau: từ 63,8% người Công giáo ở dân số châu Mỹ, 39,7% ở châu Âu, 19,2% ở châu Phi, lên tới 3,3% ở châu Á. Điều quan trọng là nhấn mạnh về việc khu vực châu Mỹ rất khác biệt: trong khi ở Bắc Mỹ, tỷ lệ người Công giáo chỉ là 24,7%, ở trung tâm lục địa và Antilles (84,6%) và ở miền Nam (86,6%), sự hiện diện của người Công giáo dường như rõ ràng hơn nhiều.
Tính đến cuối năm 2017, tổng số các nhà lãnh đạo Giáo hội lên tới 4.666.073 đơn vị, tăng 0,5% so với năm 2016. Sự suy giảm giữa các thành phần khác nhau thì khá khác nhau giữa lục địa này so với lục địa khác. Trong tổng số trung bình thế giới, tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giáo sĩ và tổng số các nhân viên mục vụ là 10,4% vào cuối năm 2017, với các giá trị thấp hơn ở Châu Phi (6,4%) và châu Mỹ (8,4%) trong khi với các giá trị cao hơn ở Châu Âu (19,3%) và ở Châu Đại Dương (18,2%). Ở châu Á, tỷ lệ này gần với mức trung bình của thế giới. Từ so sánh với tình hình số vào năm 2016, con số các linh mục đã giảm từ 414.969 vào năm 2016 xuống còn 414.582 trong năm 2017; sự thay đổi này là dễ thấy vì đây là lần đầu tiên điều này xảy ra kể từ năm 2010. Thay vào đó, con số các giám mục, các Phó tế vĩnh viễn, các nhà truyền giáo giáo dân và các giáo lý viên đã tăng lên.
Con số các ứng viên cho chức tư tế trên toàn thế giới đã giảm từ 116.160 vào năm 2016 xuống còn 115.328 trong năm 2017, giảm 0,7%. Bức tranh về dòng chảy lục địa dường như thỏa đáng trong các Giáo hội châu Phi và châu Á, trong khi ở châu Âu và châu Mỹ sự giảm sút xuất hiện rất rõ ràng. Sự phân phối đối với các Chủng sinh theo lục địa vẫn ổn định đáng kể trong hai năm qua. Liên quan đến năm 2017, có thể thấy rằng châu Âu đóng góp 14,9% vào tổng số thế giới, châu Mỹ 27,3%, châu Á 29,8% và châu Phi 27,1%.
Minh Tuệ chuyển ngữ