Cuộc kiểm tra dân số khi Chúa giáng sinh có ý nghĩa gì? Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” nghĩa là sao? Có thật Chúa đã được sinh ra trong một hang đá?
Trình thuật về biến cố Chúa Giêsu chào đời rất ngắn gọn (Lc 2,1-7).
Trước hết, tác giả Luca đặt cuộc giáng sinh của Đức Giêsu vào khung cảnh lịch sử trần gian: “Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi”(cc.1-3).
Thật ra, những thông tin mà tác giả cung cấp thì không rõ ràng, và về phương diện sử học, đã tạo nên không ít khó khăn. Tuy nhiên, có lẽ thánh Luca không có ý xác định ngày giờ chính xác của biến cố, mà chỉ có ý gắn biến cố đó vào trong khung cảnh lịch sử phổ quát, để cho thấy cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu không chỉ ứng đáp niềm khát khao chờ đợi của Israel mà thôi, mà còn là của toàn thể nhân loại.
Cuộc kiểm tra dân số được nói đến ở đây cũng là một chi tiết khó xác định về mặt lịch sử: đó là cuộc kiểm tra dân số nào trong số các cuộc kiểm tra dân số của đế quốc Rôma? Tuy nhiên, điều quan trọng hơn và cần phải được chú ý, là ý hướng của tác giả khi ông nói đến cuộc kiểm tra dân số. Có hai ý nghĩa đặc biệt được nhấn mạnh ở đây:
– Cuộc kiểm tra dân số này là cơ hội của sự quan phòng thần linh để cha mẹ Đấng Mêsia trở về Bêlem, thành của vua Đavít, và như thế, lời ngôn sứ Mk 5,2 sẽ được thực hiện.
– Hơn nữa, vì Chúa Giêsu sinh ra ngay trong giai đoạn đang tiến hành cuộc kiểm tra dân số của toàn thế giới (theo cách nhìn của người La Mã), nên tên của Người được ghi vào sổ bộ nhân loại cùng với tất cả những ai đang có mặt trong thế giới lúc đó, và nói như Ôrigiênê, ngõ hầu Người có thể thánh hóa thế giới và biến sổ bộ ghi tên những kẻ phải chết thành sổ bộ sự sống.
“Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai” (cc.4-5). Tác giả muốn nhấn mạnh chi tiết ông Giuse thuộc dòng tộc vua Đavít, và việc ông trở về thành của vua Đavít là chi tiết quan trọng đối với tác giả trình thuật, vì Đấng Mêsia, theo Mk 5,1 phải là con cháu nhà Đavít và sinh tại Bêlem. Không ngờ quyết định của hoàng đế Augustô lại trở thành công cụ để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện.
“Khi hai người đang ở Bêlem, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (cc.6-7). Khác với Gioan Tẩy Giả, vốn được sinh ra trong khung cảnh vui tươi, xung quanh có bà con thân hữu, tuy có lẽ cũng là sinh trong cảnh nghèo, Chúa Giêsu được sinh ra trong một hoàn cảnh hoàn toàn nghèo nàn và cô đơn. Sự kiện còn hoàn toàn ngược với những gì thiên sứ Gabriel đã loan báo trong 1,32t.
Chúa Giêsu được gọi là “con đầu lòng” (chứ không phải “con duy nhất”). “Con đầu lòng” là hạn từ diễn tả vị thế pháp lý và tôn giáo, độc lập với sự kiện có hay không có những người con khác. Tác giả Tin Mừng không muốn nhấn mạnh trên sự kiện Chúa Giêsu là con độc nhất của Đức Maria, vì có lẽ ông thấy không cần phải làm điều đó. Điều ông muốn người đọc chú ý là sự kiện Người là con đầu lòng. Với tư cách đó, Chúa Giêsu được hưởng ưu vị dành cho người con sinh ra trước tiên trong gia đình, nhất là sự kiện được thánh hiến cho Thiên Chúa. Chưa kể rằng trong tư cách là con đầu lòng, Đức Giêsu là người thừa kế hợp pháp của vua Đavít.
Đức Maria “lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”. Người thực hiện những công việc bình thường của những người mẹ. Con Thiên Chúa làm người đón nhận sự chăm sóc của Mẹ như những hài nhi khác. Điều đáng nói là Người được đặt nằm trong máng cỏ. Đó là một cái máng hoặc một cái hộc nhỏ khoét trong tường hay trong vách hang đá.
Tác giả Tin Mừng cẩn thận ghi chú: “vì hai ông bà không tìm được chỗ trong katalyma”. Trong bản LXX, hạn từ katalymamang nhiều nghĩa khác nhau. Vì thế rất khó xác định ý nghĩa được tác giả Lc sử dụng ở đây. Nhưng có thể nói đến hai nghĩa.
(1) Có thể đó là một quán trọ dành cho khách bộ hành. Tuy nhiên, khi nói về quán trọ trong 10,34 tác giả Luca lại dùng một hạn từ khác, chứ không dùng katalyma. Đàng khác, theo câu 6, có vẻ tác giả không có ý nói là thánh Giuse và Đức Mẹ vừa đến Giêrusalem và đang tìm chỗ trọ.
(2) Khả năng thứ hai: katalyma ở đây là một căn phòng trong quán trọ. Khi nói về căn phòng nơi Đức Giêsu và các đồ đệ ăn lễ vượt qua, tác giả Luca gọi đó là katalyma.
Hiểu theo nghĩa thứ hai này, sự kiện có thể được hình dung như sau: thánh Giuse và Đức Mẹ không thuê được một chỗ trong phòng, mà là một góc trong quán trọ thôi, ví dụ chỗ dành cho lừa ngựa. Trong thực tế, khi quán trọ quá đông khách, người ta tận dụng cả những chái nhà hay những góc sân dành cho lừa ngựa để cho khách thuê trọ. Đức Giêsu đã cất tiếng khóc chào đời trong chỗ hèn kém ấy, ngay bên cạnh những con người vô cảm trong quán trọ, những con người đã không nhường chỗ cho người phụ nữ mang thai và chuyển dạ sinh nở.
Mãi đến thế kỷ II, với thánh Giustinô, mới xuất hiện truyền thống nói rằng Đức Giêsu được sinh ra trong một hang đá. Có thể đã xảy ra như vậy, nhưng tác giả Lc thì không nói gì về điều đó cả. Sau này, chúng ta thi vị hóa bằng cách “chuyển” hang đá ra một cách đồng cô quạnh. Hình ảnh đó đẹp thật, nhưng không làm nổi bật sự vô cảm rất đáng trách của những con người trong quán trọ đêm hôm ấy.
Nhưng nếu hiểu rằng Đức Mẹ sinh hạ Chúa Giêsu trong một góc sân hay trong một góc của chái nhà trọ, “vì hai ông bà không tìm được một chỗ trong phòng”, thì tình hình sẽ hoàn toàn khác hẳn. Sao những người phụ nữ đã từng trải qua giờ phút sinh đẻ đang có mặt trong quán trọ không nhường chỗ cho một người phụ nữ đang chuyển dạ sinh con đầu lòng nhỉ? Những người đàn ông đã từng lo lắng khi đứa con của mình vừa cất tiếng khóc chào đời sao không nhường chỗ cho đứa trẻ vừa được sinh ra này? Sự kiện Đức Maria đặt Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ, chỗ thường dành cho lừa ngựa của khách trọ trong quán, là một hình ảnh đau xót, tố cáo mạnh mẽ sự vô cảm đáng trách của con người ta.
Giuse Nguyễn Thể Hiện