Vậy là, hơn sáu mươi năm đã qua đi, kể từ ngày Miền Bắc Việt Nam rơi vào tay chế độ Cộng sản. Thời gian sáu mươi năm chưa phải là dài so với cả chặng đường lịch sử của dân tộc, nhưng cũng đủ để có những nhận định khách quan về một thời gian của lịch sử.
Bài viết dưới đây không phải là một bài nghiên cứu chuyên sâu của một sử gia về Giáo hội Miền Bắc Việt Nam dưới thời cộng sản (1954-2016). Trong khuôn khổ một bài viết, với khả năng hạn hẹp, chỉ dám đưa ra “cái nhìn khác” của một người luôn thao thức với vận mệnh của đất nước, cách riêng Giáo hội Công giáo Việt Nam.
1. Di cư hay “mầu nhiệm thương khó”
Viết về lịch sử Giáo hội Miền Bắc không thể không nhắc tới biến cố di cư (1954-1955), nhất là viết về Giáo hội Công giáo Miền Bắc thời cộng sản.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết. Vĩ tuyến 17 trở thành ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc. Một thỏa thuận đã được ký kết, tại điều 14, quy định trong thời gian 300 ngày, công dân hai miền được tự do đi lại và chọn lựa nơi ở của mình. Cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam bắt đầu. Có khoảng 820.000 người, trong đó khoảng 75% là người Công giáo, đã lên đường vào Nam và hơn 150.000 người, đa số là các đảng viên cộng sản, những người chiến đấu trong chiến khu… từ Miền Nam chuyển ra Miền Bắc, theo diện mà những người cộng sản gọi bằng mỹ từ: “tập kết ra Bắc”.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, biến cố di cư năm 1954 đã làm thay đổi cục diện phân bổ người Công giáo ở cả hai miền. Trong khi dân số Công giáo tại miền Nam tăng đột biến, thì tại miền Bắc người Công giáo chỉ còn phân nửa so với trước di cư. Những giáo phận có đông người Công giáo di cư phải kể đến: Phát Diệm với 80.000 người chiếm 72,7% dân số Công giáo của địa phận thời đó; Bùi Chu với 150.000 người chiếm 71,7%; Thái Bình 80.000 chiếm 57,1%… Không chỉ có giáo dân lên đường vào Nam, một số Giám mục cũng lên đường đưa con chiên vào vùng đất mới, như: Đức Cha Tađêo Lê Hữu Từ (Giáo phận Phát Diệm), Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (Giáo phận Bùi Chu), Đức Cha Giuse Trương Cao Đại (Giáo phận Hải Phòng). Tại nhiều giáo phận, sau di cư, số lượng các linh mục giảm sút đáng kể. Có những giáo phận số lượng linh mục di cư quá phân nửa, như Thanh Hóa (88,9%), Phát Diệm (87,4%), Hải Phòng (80,6%), Bùi Chu (77,7%)… Có những giáo phận chỉ còn 1 linh mục duy nhất như giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng (x. Lê Ngọc Bích, Nhân vật Công giáo Việt Nam: Các vị Giám mục một thời đã qua đời (1933-1985).
Điều đáng nói không chỉ là số lượng các giáo sĩ, giáo dân Công giáo dịch chuyển vào miền Nam để tránh đại họa Cộng sản, để lại một khoảng trống lớn về nhân lực, mà chính cuộc di cư ồ ạt của mọi thành phần dân Chúa Giáo tỉnh Hà Nội đã mang đi tất cả những gì là tinh hoa của Giáo hội Miền Bắc lúc bấy giờ. Nhà thờ trống vắng các con chiên. Các linh mục, các trí thức Công giáo, những giáo dân nhiệt thành cùng các chủ chăn lên đường vào Nam. Những người còn ở lại, hoặc là vì không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, hoặc là vì gia đình có người già không đủ sức khỏe để lên đường, cũng có những người vì có mối liên hệ với Việt Minh trước đó và đang trông chờ Việt Minh nắm quyền nên họ đã vui mừng ở lại.
Theo Peter Hansen, tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của cuộc “di cư vĩ đại” này dường như không dễ dàng và càng không giống như những gì kiến thức lịch sử chính thống của “bên thắng cuộc” đã hình dung, rằng CIA đã đứng đằng sau cuộc di cư của người Công giáo bằng cách tung ra đòn đánh tâm lý chiến, đánh vào sự mê tín của những người Công giáo bằng cách phao tin “Chúa đã vào Nam”, rằng cuộc di cư lần này là do “Đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm” dụ dỗ và ép buộc. Trong thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau thúc đẩy người Công giáo bất chấp nguy hiểm vượt vĩ tuyến 17 vào Nam, trong đó lý do chủ yếu chính là nhằm tránh sự đàn áp tôn giáo cùng niềm tin nơi lời của các vị mục tử dẫn dắt họ. Cuộc di cư này với khoảng gần một nửa tổng số các giáo dân các giáo phận miền Bắc đã tạo nên khoảng trống vô cùng lớn, biến dạng hoàn toàn các cơ chế trong Giáo hội Miền Bắc bấy giờ (x. Peter Hansen, Bac di cư: Catholic Refusees from the North of Viêt Nam and Their Role in the Southern Republic, 1954-1959, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No.3, pp. 173-211).
Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, trong cuốn hồi ký của mình, đã miêu tả Giáo hội Miền Bắc sau năm 1954 như một “cánh đồng hoang tàn”, các giáo phận người người xuôi Nam, nhiều giáo xứ rơi vào cảnh vườn không nhà trống. Những giáo dân còn ở lại đa phần là “những người bình thường, những người nghèo khó”. Các dòng tu hầu hết xuôi Nam. Cả Hà Nội chỉ còn một dòng tu nam duy nhất là Dòng Chúa Cứu Thế, với linh mục Vũ Ngọc Bích (1914-2004) một mình cai quản Ngôi đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà suốt hơn 50 năm trời (x. Giám mục Phaolô Lê Đắc Trọng, Những câu chuyện về một thời, tr. 302 – 310).
Tất cả những dữ kiện đó, cùng với những cuộc bố ráp, bắt giữ của Việt Minh rộng khắp các giáo phận thuộc Giáo tỉnh Hà Nội, nhằm ngăn chặn những người Công giáo muốn vào Nam, báo hiệu một “cuộc thương khó” kéo dài của Giáo hội tại Miền Bắc.
Thái Hà, ngày 5 tháng 7 năm 2016
Lm. Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, C.Ss.R
(còn tiếp)