“Hoạt động phụng vụ mang một hình thức cao quý hơn khi các việc phụng tự được cử hành một cách long trọng, với tiếng hát do các thừa tác viên có chức thánh chủ sự và giáo dân tích cực tham dự” (Sacrosanctum Concilium, số 113).
- DẤU ẤN HIỆP THÔNG
Sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh chị em sắc tộc trên vùng đất Tây Nguyên luôn được Đức cha Cuénot Thể[1] quan tâm. Kể từ năm 1842, Đức cha đã phái những đoàn truyền giáo đầu tiên lên trên vùng đất cao nguyên, nhưng đều thất bại vì nhiều lý do khác nhau. Phải chờ đến giai đoạn 1848-1950, với bước khởi đầu thăm dò và thành công của Thầy Sáu Do. Sau một thời gian dò dẫm, tìm hiểu với sự giúp đỡ chân tình của Bok Kiơm, các vị thừa sai đã tới được miền Đất Hứa năm 1850, chính là cánh đồng Đăk Bla như Đức cha hằng chờ mong.

Đức cha Stêphanô Théodore Cuénot Thể (1802-1861)
“Năm sau [1851], ngài quyết định thiết lập ngay 4 trung tâm truyền giáo và đặt Cha Combes Bê làm Bề trên miền. Bốn miền truyền giáo đó là: Trung tâm Plei Rơhai: do Cha Bernard Desgouts và thầy Sáu Do phụ trách lo truyền giáo cho người Bahnar. Trung tâm Kon Trang: Nằm phía Bắc Kon Tum, được trao cho Cha P. Dourisboures Ân phụ trách để truyền giáo cho người Xơđăng. Trung tâm Plei Chư: Nằm phía Tây Kon Tum. Cha Fontaine Hoàng (Bok Phẩm) phụ trách trung tâm lo loan báo Tin Mừng cho người Jrai. Trung tâm Kon Kơxâm: được trao cho cha Bề trên đầu tiên Miền truyền giáo, cha J.P. Combes. Nằm về phía Đông Kon Tum, trung tâm có nhiệm vụ giảng đạo cho anh chị em Bahnar, Jơlơng.”[2]
Các trung tâm truyền giáo này có những mức độ phát triển khác nhau, nhưng điều đáng chú ý là tại Kon Kơxâm, Cha J.P. Combes mau chóng bắt tay ngay vào công việc Latin hoá chữ viết. Năm sau, cha soạn xong cuốn Giáo lý và Sách Kinh bằng tiếng Bahnar. Qua năm 1853, cả làng Kon Kơxâm tòng giáo và ngày 28/12/1853, Cha đã ban phép Thánh tẩy cho ông Giuse H’Mur. Đây là người tín hữu Bahnar đầu tiên.
Trong khi miền xuôi còn bị cấm cách, thì trên cao nguyên các làng dân tộc [tộc người] “đua nhau” trở lại. Khởi đầu là làng Kon Klor (1886), tới Kon Hngo Kơtu (1887). Chỉ trong 21 năm, đã có tới 94 làng trở lại. Có năm tới 12 làng (năm 1893), 14 làng (năm 1895) hoặc như năm 1897, ngoài 14 làng Bahnar, Xơđăng xin theo đạo, có cả một số làng bộ tộc Êđê cũng xin tòng giáo.
Sở dĩ chúng ta phải quay ngược lại lịch sử của việc truyền giáo của Giáo phận Kon Tum cho các tộc người, nhất là tộc người Bahnar là bởi vì Phụng vụ thánh ca Bahnar có ảnh hưởng lên Phụng vụ thánh ca của anh chị em Jrai. Kể từ khi người Bahnar lãnh nhận bí tích Thánh tẩy đầu tiên, ông Giuse H’Mur vào ngày 28/12/1853, thì anh chị em Jrai đón nhận Tin Mừng muộn hơn nhiều.
Việc truyền giáo cho người Jrai trong Giáo phận Kon Tum phát triển mạnh vào năm 1905, khi các thừa sai người Pháp đến với người Jrai Hà Bầu (H’Bau), phía Bắc Pleiku ngày nay. Đồng thời cũng gửi các thừa sai đến khu vực Đức Cơ, gần biên giới Campuchia. Ở tại H’Bau, nay là khu vực thuộc giáo xứ Chư Đang Ya,[3] đã có một số làng theo đạo, tuy nhiên con số cụ thể những người lãnh bí tích Thánh tẩy không có số liệu chính thức. Riêng ở Đức Cơ (khu vực giáo xứ Plei Rơngol Khop) mãi đến năm 1913, tuy dân làng “đã” theo đạo nhưng chưa ai rửa tội.[4] Theo những gì chúng tôi tìm hiểu, phỏng vấn những người cao tuổi tại Chư Đang Ya, giai đoạn này họ được các thừa sai dạy kinh, đọc Kinh Thánh và có lẽ là cả các bài thánh ca Bahnar sử dụng trong phụng vụ Thánh Lễ. Trường hợp này cũng diễn ra tại Plei Chuêt, một trung tâm truyền giáo cho người Jrai ngay tại Pleiku.
Theo chứng từ của chị Maria Ksor H’khel[5] thì những người theo đạo Công Giáo sớm nhất xuất hiện tại Plei Chuêt (gần Pleiku ngày nay) chính là bố mẹ của chị. Bố của chị là ông Paulô Klứk, người Bahnar ở Plei Rơhai (Kon Tum); lấy mẹ của chị là người Jrai ở làng Plei Chuêt. Chính ông Paulô Klứk đưa mẹ của chị lên Kon Tum học đạo và sau một năm thì được Rửa tội, Thêm sức và làm phép hôn phối năm 1968. Lòng nhiệt thành truyền đạo của ông Paulô Klứk đã làm cho nhiều người tin theo Chúa; mặt khác ông lại cùng với những người mới theo đạo này, loan truyền Tin Mừng cho những người Jrai tại các buôn làng khác nhau. Thời gian đầu, chưa có sách kinh, Kinh Thánh tiếng Jrai, ông đã dạy các con và những người tin theo đọc các kinh, Kinh Thánh bằng tiếng Bahnar. Năm 1971, nhờ sự giới thiệu của Cha Thức,[6] Cha Antôn Vương Đình Tài, Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) chính thức phụ trách điểm truyền giáo cho anh chị em Jrai tại Plei Chuêt. Năm 1972, Cha Tài bắt đầu dâng lễ tại các gia đình trong làng, đã có những anh chị em cộng tác viên tập hát trước các Thánh Lễ. Dù Cha Antôn đã biết tiếng Jrai, nhưng chúng tôi tin rằng, bước đầu sẽ sử dụng kinh, Kinh Thánh và các bài thánh ca Bahnar, như ông Paulô Klứk đã làm cho gia đình ông, cũng như những người mới tin theo Chúa.
- THAM GIA SỨ MẠNG
Cha Jacques Dournes [Giacôbê Đức], (1922-1993)
Trở lại với lịch sử truyền giáo cho người Jrai, cho dù Đức cha Cuénot Thể đã sớm thành lập Trung tâm truyền giáo cho người Jrai từ năm 1851 nhưng kết quả không mấy khả quan. Việc tái khởi động việc truyền giáo cho người Jrai được Đức cha Paul Seitz (Kim) thực hiện bằng việc trao cho Cha Jacques Dournes (1922-1993) vùng Cheoreo – Tơlúi[7] vào năm 1955. Đứng trước nhu cầu thực tế qua phụng vụ Thánh Lễ, hiện tại chúng tôi lưu trữ được một cuốn sách nhỏ với tiêu đề “Paskha”, đã được Cha Jacques Dournes biên soạn bằng tiếng Jrai xuất bản vào tháng 09/1959. “Paskha” là cuốn sách hướng dẫn phụng vụ tuần thánh bắt đầu từ Lễ Lá cho đến Chúa nhật Phục Sinh. Trong cuốn sách này, Cha Jacques Dournes đã chuyển ngữ bài Panga Lingua Gloriosi[8] qua tiếng Jrai. Ngoài ra còn có những câu xướng – đáp trong việc Suy tôn Thánh giá thứ sáu tuần thánh,[9] câu Alleluia trong đêm vọng phục sinh và Chúa nhật Phục Sinh.

Panga Lingua Gloriosi – Cha Jacques Dournes dịch

Câu hát suy tôn thánh giá – thứ sáu tuần thánh

Alleluia – Phục sinh
Cha Jacques Dournes còn sáng tác, hoặc dịch qua tiếng Jrai các bài thánh ca để sử dụng trong phụng vụ, nhất là phụng vụ Thánh Lễ. Hiện nay, trong cuốn sách Adôh bě – Ca lên đi, còn lưu giữ lại được một số bài. Ví dụ như một số bài sau đây:
Sứ mạng truyền giáo cho người Jrai của Cha Jacques Dournes kết thúc vào năm 1969. Những gì Cha Jacques Dournes để lại là tài sản vô giá, ngoài những áp dụng trong phụng vụ, mục vụ theo hướng hội nhập văn hoá, các bản dịch Kinh Thánh chọn lọc cho anh chị em Jrai trong những năm đầu truyền giáo đầy khó khăn, thử thách. Cha còn để lại một kho tàng đồ sộ các tác phẩm nghiên cứu văn hoá, ngôn ngữ, thảo mộc và cấu trúc triết lý gia đình, xã hội Jrai. Đây là nền tảng cho công cuộc Phúc Âm hoá mà các nhà thừa sai DCCT sẽ thừa hưởng khi đến với anh chị em Jrai, lúc bấy giờ chưa có mấy người theo đạo.
Vào ngày 10/10/1969, Đức cha Paul Seitz (Kim) chào đón anh em DCCT và đã đưa 4 tu sĩ, Linh mục DCCT đến Pleikly, đó là Cha Antôn Vương Đình Tài, hai Thầy Phó tế Giuse Trần Sĩ Tín, Phêrô Nguyễn Đức Mầu và tu sĩ Phêrô Hồ Văn Quân tới Pleikly. Giai đoạn những năm 1969 đến 1988 là giai đoạn thử thách với nhiều biến cố bi thương, các thừa sai ngoài việc học với dân, làm với dân thì cũng dành thời gian để tìm hiểu văn hoá, phong tục và dịch Kinh Thánh Tân Ước (1972). Thánh ý Chúa quả là nhiệm mầu, khi sắp xếp việc hiện diện của các thừa sai tại các vùng khác nhau[10] mà sau này thành lập thành 3 cộng đoàn. Tại Pleikly có Cha Giuse Trần Sĩ Tín; tại Cheoreo có Cha Phêrô Nguyễn Đức Mầu, kế tiếp có Cha GB. Nguyễn Văn Phán; tại Pleiku có Cha Antôn Vương Đình Tài. Tại mỗi vùng truyền giáo, trong điều kiện thiếu thốn giữa vùng rừng thiêng nước độc, giữa những biến động xã hội có khi đe dọa đến tính mạng, các thừa sai vẫn “lăn lộn” với dân, chuẩn bị và áp dụng những bản dịch giáo lý, Kinh Thánh, phụng vụ và cả những bài thánh ca cho dân Chúa.

Thầy Phó tế Giuse Trần Sĩ Tín dạy học cho các em Jrai
Theo lời kể của Cha Tín (Siu Brâo)[11], bài thánh ca đầu tiên mà ngài dịch qua tiếng Jrai là bài Trông đợi, nhạc của Didier Rimaud, lời Việt của Cha Giuse Phạm Đán Bình, DCCT. Ngài chia sẻ: “Kể từ khi bắt đầu có người Jrai tham dự Thánh Lễ, lúc ấy chỉ có bọn trẻ vào khoảng năm 1973, tôi đã dịch bài này qua tiếng Jrai. Đến Giáng Sinh, người Jrai cần bài Giáng Sinh thì tôi dịch bài Hang Belem của Hải Linh.”[12] Tuy nhiên, ngài cũng nhấn mạnh: tôi “chuyển ngữ” chứ không phải “chuyển dịch” vì tôi đã đưa pơtưh (câu nói vần) của người Jrai vào bài hát. Đến khoảng năm 1988, khi người Jrai ồ ạt theo Đạo, thì Cha Tín sáng tác bài đầu tiên bao gồm cả nhạc và lời, đó là bài Rei Rei Rei! Ngài chia sẻ về bài thánh ca này như sau: “Xin Thần Khí đến dạy cho chúng con biết kêu Ama (Chúa Cha), kết nghĩa cho chúng con được làm con Ama (Chúa Cha), nghĩa là giao ước đấy!” Sau này, khi cần phải dịch ra tiếng Việt, Cha Tín mới dịch bài này ra tiếng Việt và có tên là Lạy Thần Khí.
Anh chị em Bahnar đón nhận Tin Mừng sớm hơn, vì thế anh chị em Bahnar đã có bộ lễ đầy đủ.[13] Theo lời kể của Cha Giuse: “Vào thời đó, giáo phận hay tổ chức các Thánh Lễ quy tụ đông người, như Lễ Dầu, tôi nhận thấy cần giữ tinh thần hiệp thông trong Hội Thánh, vì thế tôi đã lấy Bộ lễ Kon Tum tức là bộ lễ dành cho người Bahnar để dịch qua tiếng Jrai.” Hiện tại, bộ lễ này được áp dụng rộng rãi cho anh chị em Jrai trong Giáo phận Kon Tum; đồng thời khi tham dự Thánh Lễ có anh chị em Bahnar, mỗi người đều có thể hát theo ngôn ngữ của mình. Cha Giuse cũng chia sẻ: Nếu có thêm người Kinh tham dự, tôi sẽ phụ họa bằng cách đệm vào các lời tiếng Việt, và như thế là một buổi phụng vụ “thiên quốc”. Ngoài bộ lễ Kon Tum được dịch và sử dụng rộng rãi; Cha Giuse còn sáng tác Bộ lễ Pleikly, tức là chỉ sử dụng ở Pleikly trong những giai đoạn đầu; tại Cheoreo có Bộ lễ Cheoreo do Ama Hiếu sáng tác, cũng ít được sử dụng. Như thế, hai trong ba trung tâm truyền giáo cho người Jrai trong Giáo phận Kon Tum của DCCT từ sớm đã có Bộ lễ riêng.
Ngoài những bài thánh ca, Cha Giuse còn sáng tác các bài Giáo lý ca, nhằm giúp các em thiếu nhi và cả người lớn dễ nhớ Kinh Thánh, giáo lý. Một số bài khá thông dụng như bài Hgơt Prong Hloh – Giới răn trọng nhất, đã được ngài dịch từ tiếng Jrai qua tiếng Việt. Trong cuốn dạy giáo lý Kinh Thánh cho thiếu nhi, biên soạn vào tháng 03/1995 tại Pleikly có một số bài giáo lý ca khác của Cha Tín như: Ơi Pơtao, Đavít, Salômôn, Êlia…
Một trong những vấn đề khó khăn nhất trong phụng vụ Thánh Lễ Jrai chính là đáp ca. Theo chia sẻ của Cha Micae Hoàng Quý Ân, DCCT:[14] “Thời gian đầu khi sáng tác các bài đáp ca, mình phải sử dụng ‘ca nhập lễ’, vì nó ít chữ, sau đó thêm ‘lời của mình” vào và viết thành đáp ca cho lễ đó! Bởi vì thời gian đầu, chưa có bản dịch đầy đủ của Thánh vịnh nên mình phải làm như vậy! Vả lại, thời gian đầu lên Tây Nguyên, mình chưa thông thạo tiếng Jrai bao nhiêu.”[15] Sau này, khi đã có đủ bản dịch Thánh vịnh, Cha Quý Ân đã sáng tác nhiều Thánh vịnh đáp ca và sử dụng rộng rãi trong các Thánh Lễ. Thường thì các đáp ca cho Thánh Lễ trọng, Chúa nhật được “dệt” nhạc trước tiên. Cha Quý Ân tham gia sứ mạng Tây Nguyên vào năm 2006, năm 2008 ngài bắt đầu sáng tác, khởi đầu với các câu Alleluia, sau này ngài sáng tác các thánh vịnh – đáp ca cho anh chị em Jrai. Vào năm 2009, khi ấy Cha Quý Ân ở Cheoreo đã cùng với Soeur Huệ tập hợp các bài thánh ca từ nhiều nguồn khác nhau thành tuyển tập thánh ca Adôh bě, năm 2015 được in lại và sử dụng cho tới ngày nay!
Một người nổi tiếng hơn trong DCCT là Linh mục nhạc sĩ Phêrô Nguyễn Đức Mầu[16] (1942-2022). Ngài là một trong bốn người đầu tiên tham gia sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh chị em Jrai trên vùng đất Tây Nguyên. Một số bài thánh ca nổi tiếng của ngài là: Hành trang người trẻ, Tôi thâm tín, Bước Người đi qua, Người dẫn con đi. Tuy nhiên, về số lượng bài thánh ca Jrai lại không nhiều, chúng ta có thể liệt kê một số bài như: Adôh bě ta, Mlam Noel, Noel truh laih, Rai tanh bě ơ Jua Adei, Hmư linh Jang…
Điều bất ngờ nhất có lẽ phải kể đến là Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Phán, DCCT (1936-2020).[17] Từ khi vào Dòng Chúa Cứu Thế, người viết chưa bao giờ nghĩ ngài có thể sáng tác thánh ca, tuy nhiên trong tuyển tập thánh ca Adôh bě ngài sáng tác khoảng 14 bài, 1 bài dịch lời. Đa phần các bài thánh ca của ngài ngắn và tập trung vào việc diễn ý Lời Chúa.

Cha GB. Nguyễn Văn Phán cử hành nghi lễ Thanh Tẩy, Cheoreo năm 1988
Cha Giuse Lê Quang Uy, DCCT dù không tham gia sứ mạng Tây Nguyên, nhưng qua thời gian mục vụ tuần thánh tại Cheoreo vào năm 1993, ngài cảm nhận âm điệu Tây Nguyên đã sáng tác một số bài mà nay đã quen thuộc với đông đảo anh chị em người Jrai và cả người Kinh như: Nước – Lửa – Gió, Sức sống dồi dào; Anai Amĭ Ih – Này là Mẹ con!, Abba.

Cha Quang Uy đứng ngoài cùng bên phải, Ama Hiếu mặc áo xanh – Phục Sinh 1993 tại Cheoreo
Trong số những anh em Jrai tham gia “sứ vụ hát ca” có Ama Hiếu là người nổi trội. Ama Hiếu phục vụ tại Cộng đoàn Cheoreo, Cha Quang Uy có nói với người viết là: “Ama Hiếu rất giỏi nhạc, ‘tớ’ cũng phải học hỏi ông ấy!” Thành quả cụ thể Ama Hiếu đóng góp cho thánh ca Jrai là Bộ lễ Cheoreo và rất nhiều bài thánh ca khác. Trong tuyển tập thánh ca Adôh bě, Ama Hiếu đóng góp 15 bài thánh ca. Ngoài Ama Hiếu còn một số các Ama khác sáng tác thánh ca như Ama Nhân thuộc Giáo xứ Plei Athai, Ama Thư thuộc Bon D – Cheoreo, Ama Noel thuộc Giáo xứ Bon Ơi Nu, Ama Hiên thuộc Giáo xứ Pleikly. Đây cũng là nhóm được Cha Giuse Tín gửi đi học nhạc về để giúp tập hát, và sáng tác. Các Ama mỗi người đóng góp trong nỗ lực của mình để phục vụ trong các Thánh Lễ, nhất là sáng tác thánh ca theo đúng tâm tư của anh chị em Jrai.
- LỜI KẾT
Trước tiên, bài viết này chú trọng vào việc tổng hợp tư liệu để giúp mọi người thấy một tiến trình lược sử về sự hình thành và phát triển của thánh ca trong phụng vụ của anh chị em Jrai. Chúng tôi ý thức được mình còn thiếu nhiều tư liệu vì chỉ gói gọn việc tìm hiểu ở các trung tâm truyền giáo của DCCT vùng Gia Lai, cho dù DCCT đang phụ trách chủ yếu việc loan báo Tin Mừng cho anh chị em Jrai trong Giáo phận Kon Tum.
Tuy nhiên, những nỗ lực ban đầu của các thừa sai thật đáng trân trọng. Vì sự thúc bách của nhu cầu mục vụ, những người không chuyên trở thành “chuyên môn” và thành “nhạc sĩ” giữa muôn vàn khó khăn và thiếu thốn. Bởi vì, như lời Cha Giuse Trần Sĩ Tín chia sẻ: “Sứ mạng Phúc Âm Hoá đòi phải hát ca… nhạc sĩ là nhạc sĩ thừa sai.”[18] Và như lời khẳng định của Ủy ban Thánh nhạc thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã xác nhận: “Thiên Chúa đã ban cho dân Ngài hồng ân ca hát. Thiên Chúa ở trong mỗi một con người, và Ngài hiện diện ở cội nguồn âm nhạc. Thật vậy, Thiên Chúa, Đấng ban tiếng hát cho con người luôn hiện diện bất cứ khi nào dân Chúa lên tiếng ca tụng Ngài.“[19] Vì thế, sứ mạng Tin Mừng hoá không thể thiếu “sứ vụ hát ca”.
Sau thời gian ban đầu “chuyển ngữ” các bài thánh ca phù hợp đến giai đoạn sáng tác thánh ca cho anh chị em Jrai là một bước tiến quan trọng. Trong sứ mạng Tin Mừng hoá văn hoá luôn bao gồm sứ vụ thánh ca hoá văn hoá. Cha Giuse Trần Sĩ Tín đã đưa các pơtưh vào các bài thánh ca ngài “chuyển ngữ” và sáng tác; các âm điệu, âm giai Tây Nguyên được thẩm thấu và sáng tạo để dệt nhạc; đó chính là làm cho văn hoá của người Jrai được hội nhập vào phụng vụ. Như Hiến chế Phụng vụ thánh khẳng định: Giáo Hội trân trọng vẻ đẹp văn hoá của của các dân nước khác nhau và, mỗi khi có thể, Giáo Hội hội nhập “những phẩm chất và tài năng” này vào phụng vụ (x. Sacrosanctum Concilium, số 37). Đây là một đòi hỏi quan trọng đối với các thừa sai, các nhạc sĩ chuyên và không chuyên khi sáng tác thánh ca cho anh chị em Jrai.
Đào tạo anh chị em Jrai để sáng tác thánh ca cho anh chị em Jrai đã bắt đầu được khởi sự. Cha Giuse Trần Sĩ Tín đã từng gửi anh em Jrai đi học nhạc với Cha Giuse Phạm Minh Công, GP. Kon Tum. Thế hệ được đào tạo đầu tiên này đã đóng góp công sức mình vào việc phục vụ các ca đoàn trong các Giáo xứ và đã sáng tác được một số bài thánh ca. Họ mang tâm hồn của người Jrai và khi viết thánh ca họ sẽ viết bằng tâm hồn của người Jrai. Cha Giuse cũng chia sẻ: “Cho dù có một số anh em Jrai viết nhạc theo kiểu mới, dù chỉ có chút hơi hướng âm điệu Tây Nguyên, thì khi hát lên vẫn toát lên một tâm hồn người Jrai thực thụ.”[20] Để tiếp nối sứ mạng đặc biệt này, các thừa sai còn nhiều thao thức về việc đào tạo thế hệ trẻ cách bài bản; tiếp tục thúc đẩy cổ vũ và làm cho phong phú không chỉ số lượng mà còn bảo đảm “chất lượng” cho thánh ca Jrai.
Những khó khăn trước mắt vẫn còn đó, nhưng những “viên gạch” đầu tiên của một nền thánh ca Jrai đã được đặt xuống trên miền truyền giáo Tây Nguyên. Chúng ta có thể hy vọng vào tương lai nhưng cũng không quên phải hành động cụ thể trong hiện tại. Chỉ có như thế, những Tuyển tập thánh ca Jrai mới không chỉ phong phú về tác giả mà còn đượm âm thanh của nắng gió đại ngàn; không chỉ có chiều sâu đức tin, nhưng còn dày dặn văn hoá truyền thống Jrai.
LM. Anphongsô Trần Ngọc Hướng, C.Ss.R.
Phú Túc, 07/09/2025.
[1] Đức Cha Etienne Théodore Cuénot Thể, Giám mục Đại diện Tông toà Đông Đàng Trong.
[2] Sơ lược lịch sử Giáo phận Kon Tum, www.gpKon Tum.wordpress.com, 05/09/2025
[3] Dưới chân ngọn núi lửa Chư Đang Ya.
[4] Lược sử Giáo xứ Plei Rơngol Khop, truy cập 05-09-2025, www.giaophanKon Tum.com.
[5] Hồi ký của gia đình ông Paulô Klứk.
[6] Cha Gioan Nguyễn Trí Thức, được bổ nhiệm Tổng đại diện Hạt Pleiku năm 1963. Chánh xứ Thăng Thiên từ 1960-1977 (BTT Gp. Kon Tum, Giáo xứ Thăng Thiên, hôm qua – hôm nay – ngày mai (Lưu hành nội bộ), 6).
[7] Cheoreo – Tơlúi là khu vực Phú Thiện, Ia Pa, Ayun Pa, Krông Pa (cũ) ngày nay.
[8] Panga Lingua Gloriosi, dịch sát nghĩa Hát lên, lưỡi ơi, Mình và Máu Huyền Bí, bài thánh ca cổ do thánh Tôma Aquinô viết lời, thường hát vào giờ chầu Thánh Thể tối thứ Năm Tuần Thánh.
[9] Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian – Chúng ta hãy đến thờ lạy!
[10] Trong khoảng những năm từ 1971-1973.
[11] Trong các bài thánh ca Cha Giuse Trần Sĩ Tín sáng tác, hoặc chuyển ngữ cho người Jrai thường ghi Y. Siu Brâo. Siu Brâo là tên anh chị em Jrai đặt cho ngài. “Y.” nghĩa là Yuse, “Siu” là một trong những “họ” của người Jrai; “Brâo” nghĩa là mới.
[12] Phỏng vấn Cha Giuse Trần Sĩ Tín vào ngày 28/08/2025 tại Pleikly.
[13] Bộ lễ Kon Tum đã bao gồm Thương xót, Vinh Danh, Kinh Lạy Cha, đối đáp trong Phụng vụ Thánh Thể, Chiên Thiên Chúa.
[14] Trong các bài thánh ca ngài sáng tác thường đề tên Mic. (Micae) Bưng Hiam (ơn lành, ơn ban).
[15] Phỏng vấn Cha Micae Hoàng Quí Ân, DCCT vào ngày 28/08/2025 tại Giáo xứ Phú Nhơn.
[16] Trong các bài thánh ca thường đề tên: Hoàng Đức.
[17] Tên Jrai của ngài và cũng là tên đề trong các bài thánh ca là “Rahlan Tgǔ”, “Rahlan” là họ của người Jrai, ” Tgǔ” nghĩa là “đứng lên”.
[18] Trần Sĩ Tín, Sứ vụ hát ca, 1.
[19] Ủy ban Thánh nhạc – HĐGM Việt Nam, Hướng dẫn mục vụ Thánh nhạc (2022), số 1.
[20] Phỏng vấn Cha Giuse Trần Sĩ Tín vào ngày 28/08/2025 tại Pleikly.