Tham luận của Đức Hồng y Peter Turkson tại Bad Honnef

Dưới đây là toàn văn bài tham luận của Đức Hồng y Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, tại hội nghị Trách nhiệm Toàn cầu 2030 diễn ra tại Bad Honnef, Đức vào thứ Bảy (12/03/2016) vừa qua.

***

Hội nghị: “Trách nhiệm Toàn cầu 2030

Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và Con đường sau năm 2015

Một thách thức cho Giáo hội Hoàn vũ”

Viện Xã hội học Công giáo (Katholisch-Sozialen), Bad Honnef, Đức, ngày 05/03/2016

Giáo huấn về các vấn đề xã hội của Giáo hội Công giáo, sinh thái toàn diện và phát triển bền vững [1]

ZENIT - HSM

ZENIT – HSM

Đại diện cho Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, tôi rất vui được tham dự hội nghị “Trách nhiệm Toàn cầu 2030” được tổ chức bởi hiệp hội học thuật Trật tự Xã hội (Ordo Socialis) [2] và Viện Xã hội học Công giáo thuộc Tổng Giáo phận Cologne [3]. Đồng thời, thay mặt hội đồng, tôi xin chân thành chúc mừng Đức Hồng y Oscar Rodríguez Maradiaga nhân dịp Ngài được nhận giải thưởng từ hiệp hội học thuật vì sự dấn thân trong tinh thần Kitô giáo của Ngài cũng như rất nhiều phương thế hữu hiệu mà Ngài đã thực hiện để xử lý các vấn đề về sự loại trừ, nghèo đói và quản trị.

Thêm vào đó, xin mọi người hãy cùng tôi hướng đến một dịp kỷ niệm kép. Vào ngày này năm 1947, Viện Xã hội Công giáo được thành lập. Cũng ngày này vào năm 1967, Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình. Nhân dịp này, Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình gửi lời chúc mừng tới Viện Xã hội học Công giáo – một cơ sở đã ra đời trước Hội đồng 20 năm.

Nhân dịp này, tôi đã thỉnh cầu ĐGH Phanxicô giới thiệu về thông điệp Laudato Si’ trong một đoạn video ngắn. Chúng ta hãy cùng theo dõi [4].

Từ đoạn video trên cũng như từ toàn bộ thông điệp Laudato Si’, chúng ta có thể rút ra mấy điểm:

  • Chúng ta được Thiên Chúa trao tặng cho thiên nhiên và những món quà phong phú trong thiên nhiên.
  • Chúng ta đã phạm sai lầm khi lạm dụng và không chia sẻ quà tặng của tạo hóa. Chúng ta đã sử dụng quá nhiều và giữ gìn quá ít – gây ra hậu quả tàn khốc cho người nghèo và trái đất.
  • Chúng ta cần khẩn cấp thay đổi tư duy phát triển, cách quản lý kinh tế và lối sống của mình. Đó là sinh thái toàn diện – một ách tiếp cận bền vững và thống nhất để xử lý các vấn đề của đời sống.

Hôm nay tôi sẽ chia sẻ về Giáo huấn về các vấn đề xã hội của Giáo hội Công giáo, sinh thái toàn diện và phát triển bền vững như đã đề cập trong tiêu đề. Qua đó, tôi muốn chỉ ra rằng cả ba vấn đề này đều quy về những đề xuất phong phú được ĐGH Phanxicô đưa ra, đặc biệt là trong thông điệp Laudato si’.

Phát triển bền vững

Phát triển bền vững là một trong những thách thức lớn nhất đối với gia đình nhân loại. Việc đo lường mức độ phát triển con người chỉ dựa trên mức độ tăng trưởng GDP không còn tỏ ra hữu ích. GDP không thể nào là chỉ số duy nhất để đo lường sự thịnh vượng. Là một phép đo tổng thể, GDP bỏ qua những biến số quan trọng và một trong những ví dụ là phép tính này không quan tâm đến tình trạng của những người ở dưới đáy xã hội (sub-populations). Như một hệ quả từ cách tính toán như vậy, hiện nay, chúng ta đang chứng kiến khoảng cách giàu nghèo ghê gớm giữa những người siêu giàu và những người vô cùng nghèo khổ. Là một phép đo lường đơn gián, GDP bỏ qua các nền tảng quan trọng khác của sự thịnh vượng. Ngày nay, chúng ra đang dần dần nhận ra rằng sự hòa nhập xã hội và sự bền vững của môi trường trong quá trình phát triển là những nền tảng phát triển theo đúng nghĩa của từ này. Phát triển thực sự phải là phát triển bền vững, dựa trên ba trụ cột – kinh tế, xã hội và môi trường. Nếu một trụ cột bị bỏ qua trong quá trình phát triển, toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ.

Nhìn từ góc độ khác, phát triển bền vững là giải pháp đối với vấn đề quy mô. Kể từ cách mạng công nghiệp, bắt đầu vào thế kỷ 18, dân số thế giới đã tăng gấp 9 lần, nền kinh tế thế giới đã tăng gấp 200 lần. Không có dấu hiệu nào cho thấy xu hướng này sẽ giảm đi. Vào giữa thế kỷ này, dân số thế giới có lẽ sẽ vượt qua 9 tỷ người, và – theo những ước đoán tốt nhất – quy mô của nền kinh tế thế giới sẽ tăng lên gấp ba. Trong một khoảng thời gian ngắn như vậy , đó là một sự thay đổi đáng kinh ngạc và chắc chắn sẽ tạo ra những thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường.

Ngay từ khi những “vấn đề mới” (res novae) như thế xuất hiện, Giáo Hội đã tìm cách đối phó với những thay đổi chóng mặt như vậy. Theo cách đó, Giáo huấn về các vấn đề xã hội của Giáo hội Công giáo đã ra đời – trong cố gắng của ĐGH Leo XIII xử lý nhằm những vấn đề mới của nền kinh tế công nghiệp hiện đại dựa trên những nguyên tắc trường tồn của Kitô giáo. Năm 1891, vào lúc thông điệp lớn Tân Sự (Rerum Novarum) được soạn thảo, cuộc cách mạng công nghệ vẫn còn ở trong trứng nước. Mặc dù kỷ nguyên của động cơ hơi nước và đường sắt đã bắt đầu khá lâu, kỷ nguyên của điện lực mới chỉ bắt đầu và những tiến bộ trong ngành ô tô và hóa dầu vẫn còn là câu chuyện tương lai, đó là chưa nói đến công nghệ thông tin. Kể từ năm 1950, những tác động đến kinh tế của cuộc cách mạng công nghiệp đã ngày càng mang lại lợi ích cho nhiều khu vực trên thế giới mặc dù theo một cách không công bằng. Quá trình này đã bắt đầu với những bất bình đẳng, bao gồm chủ nghĩa thực dân và nô lệ, và vẫn tiếp tục rất bất công, chưa hoàn thiện và một số nơi còn rất kém phát triển, nếu không muốn nói là bị cô lập.

Bên cạnh việc tập trung vào các điều kiện và quyền của người lao động, thông điệp Tân Sự cũng bao gồm những mầm mống cho những ý tưởng hiện nay về môi trường tự nhiên. Ví dụ, thông điệp chỉ ra rằng những người lãnh nhận các nguồn tài nguyên thiên nhiên do lòng hào phóng khoáng của Thiên Chúa ban tặng phải có trách nhiệm của mình “như một người quản lý tài sản của Thiên Chúa, vì lợi ích của người khác” [5]. Hơn nữa, thông điệp Tân Sự – và tất cả những thông điệp sau đó của các Giáo hoàng về xã hội – đã cảnh báo về những chia rẽ khắc nghiệt giữa người giàu và người nghèo trong các quốc gia, và giữa quốc gia giàu và quốc gia nghèo do chủ nghĩa tư bản hiện đại tạo ra. Một khi nền kinh tế được thúc đẩy bằng lợi ích vị kỷ, lòng tham, mục tiêu là sự dư thừa hàng hóa và tiêu thụ vô độ, hậu quả sẽ là sự biến dạng và mất cân bằng. Với việc tập trung một cách hạn hẹp và tương đối vào vấn đề phát triển, nền kinh tế sẽ trở thành quả bom hủy diệt.

Năm 2007, ĐGH Bênêđíctô XVI đã nói đến việc “tiêu diệt những nguyên nhân ở cấp độ hệ thống dẫn đến sự biến dạng của nền kinh tế thế giới và sửa chữa những mô hình phát triển không thể đảm bảo sự tôn trọng dành cho môi trường” [6]. Đây là một thông điệp mạnh mẽ mà ĐGH Phanxicô lấy lại trong thông điệp Laudato si’. “Các cách tiếp cận thiển cận khi xử lý các vấn đề kinh tế, thương mại và sản xuất” (số 32) cũng phát triển với mức độ tương tự mức độ mở rộng quy mô và phạm vi của nền kinh tế thế giới. ĐGH Phanxicô nói rằng “văn hóa vứt bỏ” là động lực phía sau của nền kinh tế loại trừ mà trong đó những người bị loại trừ thậm chí còn không được coi là một phần của xã hội, họ là những người ở ngoại biên, những người “dư thừa”.

Nhưng không chỉ có vậy. Vào lúc thông điệp Tân Sự được viết ra, quy mô của nền kinh tế thế giới nhỏ hơn rất nhiều so với bây giờ cho nên có ít tác động hơn đối với trái đất cũng như hệ thống tự nhiên và chu kỳ tự nhiên. Hiện nay, tình hình đã thay đổi. Khi soạn thảo thông điệp Laudato si’, ĐGH Phanxicô đã tham khảo một số nhà khoa học hàng đầu thế giới – bao gồm một số người ở Đức. Thông điệp tuyên bố một cách rõ ràng và mạnh mẽ rằng nhân loại đang làm hỏng chu kỳ tự nhiên của trái đất theo một cách nguy hiểm chưa từng có. Quy mô hoạt động của con người hiện nay đồng nghĩa với việc chúng ta đang đi quá giới hạn an toàn của tự nhiên – trong đó bao gồm tình trạng biến đổi khi hậu; axít hóa đại dương; suy giảm diện tích rừng; cạn kiệt các nguồn nước giá trị; ô nhiễm do sử dụng quá nhiều phân bón và năng lượng hóa thạch; và sự phá hủy các hệ sinh thái tinh vi cũng như sự mất cân bằng sinh học một cách bi thảm.

Lần đầu tiên, trong  một thông điệp của giáo hoàng, ĐGH Phanxicô nhắc đến những hiểm họa như vậy, đặc biệt là nhắc đến ngay trong chương đầu tiên của thông điệp, “Điều gì đang xảy ra với ngôi nhà chung của chúng ta”. Có một lý do đơn giản. Nếu chúng ra không dừng lại và xem xét hành vi của mình, chúng ra sẽ phá hủy hành tinh giàu đẹp đươc Thiên Chúa trao tặng. Như thế, chúng ta phá hủy những điều để kiện phát triển con người – đặc biệt là người nghèo và các thế hệ tương lai [7].

Đó là lí do vì sao phát triển bền vững là một thách thức đối với thời đại của chúng ta. Chúng ta phải khôi phục lại sự hiểu biết thích hợp về sự cân bằng, đặt các trụ cột xã hội và môi trường ngang bằng với trụ cột kinh tế. Sự phát triển cân bằng hướng tới một thế giới mà trong thế giới đó, phát triển kinh tế mang lại lợi ích cho mọi người, sự nghèo đói bị hủy diệt, các nguồn tài nguyên của trái đất được chia sẻ công bằng, thiên nhiên được bảo vệ khỏi sự xuống cấp do con người, và mọi người đều được phát triển.

Trong tinh thần đó, các nhà lãnh đạo thế giới đã gặp nhau tại New York vào tháng Chín vừa qua để ký kết 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững. Sau đó, tại hội nghị COP21, tại Pari vào tháng Mười hai vừa qua, họ đã cam kết xóa bỏ việc sử dụng các nguồn năng lượng hóa thạch đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Những mục tiêu này là những ưu tiên đúng đắn đối với thế giới trong thời điểm này. Mục đích là làm cho nền kinh tế hoạt động theo hướng mang lại lợi ích cho mọi người; xóa bỏ một vết nhơ đối với một thế giới đầy của cải ngày hôm nay – đó là sự tồn tại của nghèo đói; đảm bảo rằng mọi người đều được tiếp cận với nguồn nước sạch, các nguồn năng lượng, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục; bảo vệ các hệ sinh thái thế giới và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững; và xây dựng xã hội hòa hợp, công bằng và hòa bình hơn.

Theo đó, các Mục tiêu Phát triển Bền vững được xây dựng trên nền tảng của các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Các Phát triển Thiên niên kỷ chỉ được áp dụng với các quốc gia đang phát triển, và tập trung vào một số ít những vấn đề ưu tiên như nghèo đói, sức khỏe, giáo dục và bình đẳng giới. Qua đó, có thể thấy được sức mạnh của một cộng đồng đoàn kết xử lý những vấn đề đạo đức cấp bách. Nhờ đó, sự đói nghèo giảm mạnh, tình trạng sức khỏe được cải thiện một cách đáng ngạc nhiên [8]. Các Mục tiêu Phát triển Bền vững được áp dụng đối với tất cả mọi người, tại mọi nơi trên thế giới, và là thách thức ở mọi cấp độ mà gia đình nhân loại đang phải đối mặt. Mặc dù các Mục tiêu Phát triển Bền vững mang nhiều tham vọng hơn nhưng chúng ta biết rằng khi người dân và đặc biệt là các nhà lãnh đạo cùng nhau theo đuổi chương trình hành động cụ thể, thành công là điều khả thi.

Chắc chắn rằng hệ thống thị trường có khả năng tạo ra sự giàu có và mang lại sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nó chỉ dừng lại ở đó. Thị trường không thể mang lại sự hòa nhập xã hội và chắc chắn không đặt ra mục tiêu giữ gìn những nguồn tài nguyên thiên nhiên có giới hạn. Cho nên, chỉ riêng thị trường sẽ không thể mang lại phát triển bền vững.

Nói như ĐGH Phanxicô, vấn đề là không nằm ở bản thân thị trường, nhưng là ở cách người ta nhìn nhận về thị trường – “sùng bái thị trường” hoặc “quan niệm thần kỳ về thị trường”. Những tư tưởng đó đã ngăn cản việc thực thi các luật lệ và tầm nhìn chính trị cần thiết. “Chính trị không được phụ thuộc vào nền kinh tế, cũng như nền kinh tế không nên phụ thuộc vào những mệnh lệnh của một hình thức nhà nước kỹ trị được vận hành hiệu quả” (số 189). Theo Giáo huấn về các vấn đề xã hội của Giáo hội Công giáo, giải pháp cho vấn đề này là lựa chọn sự liên đới thay vì lợi ích vị kỷ, công ích thay vì tối đa hóa lợi nhuận, sự phát triển con người toàn diện thay vì chủ nghĩa vật chất, sự bền vững thay vì tư duy ngắn hạn. Điều này không có nghĩa là phủ nhận thị trường nhưng là nhìn nhận những giới hạn của thị trường và đặt nó dưới sự kiểm soát của đạo đức và con người.

Nói về sự liên đới, tôi xin phép được nhắc lại một ví dụ tuyệt vời từ nước Đức trong thời gian gần đây. Quan điểm của nước này về người tị nạn là một chứng từ cụ thể và tuyệt vời về sự cảm thông đối với những người bị loại trừ và bị đặt ra vùng ngoại biên. Trong vấn đề, sự bền vững là điều cần thiết, như ĐGH Phanxicô đã khẳng định:

“Đối với việc di dân, cần có một kế hoạch trung hạn và dài hạn chứ không chỉ là những giải pháp tức thời. Những kế hoạch đó cần bao gồm sự hỗ trợ hiệu quả dành cho những người nhập cư để họ hội nhập vào quốc gia tiếp nhận họ, đồng thời, thúc đẩy sự phát triển tại quê hương của những người tị nạn thông qua những chính sách dựa trên tình liên đới chứ không phải là những sự trợ giúp trong đó bao gồm những tính toán về lợi ích chiến lực hay mang tính ý thức hệ – vốn là  những điều xa lạ hoặc tương phản với nền văn hóa của các quốc gia được hỗ trợ [9].

Cảnh khốn cùng của những người di dân và người tị nạn là nỗi ưu tư của ĐGH, và cách hành động của các bạn tại Đức thực sự là bằng chứng về lòng thương xót trong Năm thánh Lòng thương xót này.

Phát triển con người toàn diện, sinh thái toàn diện và Giáo huấn về các vấn đề xã hội của Giáo hội Công giáo

Cho đến bây giờ, bài phát biểu của tôi tập trung vào sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong thông điệp Laudato si’, ĐGH Phanxicô kêu gọi một điều gì đó to lớn hơn và toàn diện hơn là một thế giới phát triển bền vững. Ngài kêu gọi “sự phát triển con người bền vững và toàn diện”. Điều đó thoáng nhìn qua thì chỉ là vấn đề ngôn từ – thêm vào chữ “toàn diện” nhưng chính chữ thêm vào đó đã làm nên sự khác biệt. Trong Giáo huấn về các vấn đề xã hội của Giáo hội Công giáo, sự phát triển con người toàn diện có nghĩa là sự phát triển toàn diện một cá nhân và của toàn nhân loại. Sự phát triển đa diện như thế vượt xa sự tăng trưởng GDP, ngay cả trong điều kiện tăng trưởng GDP được phân chia tốt hơn. Nó không chỉ là sự phát triển về vật chất hay kinh tế. Nó bao gồm những chiều kích văn hóa, xã hội, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ và tôn giáo. Nó là một lời mời gọi mỗi người trên hành tinh này phát triển, sử dụng những món quà được Thiên chúa trao tặng để trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá của mình.

Cách tiếp cận toàn diện và tổng thể nhiều hơn này đối với sự phát triển vượt xa những cách tiếp cận một cách đơn giản và hạn chế. Phát triển không nên được hiểu như một trong những thuật ngữ kỹ trị thuần túy và bị đặt ra bên ngoài những mối quan tâm đạo đức. Thông điệp Laudato si’ mạnh mẽ kết án sự thống trị của “mô hình kỹ trị”. Khi nói đến “mô hình kỹ trị”, ĐGH Phanxicô muốn nói tới xu hướng lấy hiệu quả và năng suất làm thước đo thành công, coi thiên nhiên như đối tượng của sự điều khiển, khống chế và kiểm soát mà không quan tâm tới những giá trị hay giới hạn nội tại của thiên nhiên. Những xu hướng này dẫn tới một cám dỗ theo đuổi “sự tăng trưởng vô hạn hay tuyệt đối” và đặt lợi ích cá nhân lên trên công ích. Nó dẫn tới cách định nghĩa sự thành công về kinh tế dựa trên những tính toán về lợi nhuận và vật chất. Điều này là dấu hiệu của mong muốn vô trật tự tìm kiếm sự thoả mãn có thể nhanh chóng đạt được. Theo ĐGH Phanxicô, đó là một thái độ hoàn toàn thiển cận, ích kỷ và là nguyên nhân đằng sau cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội. “Mối liên minh giữa kinh tế và công nghệ dẫn đến một sự gạt ra bên lề bất cứ điều gì không lien quan đến những lợi ích trước mắt” (số 54).

Trong thực tế, điều này kêu gọi chúng ta nhìn nhận lại cuộc đua tăng trưởng GDP và chủ nghĩa tiêu thụ. Thông điệp Laudato si’ lưu ý rằng một số quốc gia thực sự cần sự tăng trưởng kinh tế hơn – đó là những quốc gia đang phát triển đang mong muốn cải thiện chất lượng sống của mình một cách chính đáng. Đây là vấn đề về công lý. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng quan trọng không kém, các quốc gia giàu hơn cũng cần xem xét lại cách sống của họ và vai trò của sự phát triển kinh tế toàn diện. Họ (chúng ta) phải đánh giá lại cơn lốc của chủ nghĩa tiêu thụ và sự phát triển mà nó mang lại.

ĐGH Phanxicô kêu gọi mọi người theo đuổi một hình thức phát triển toàn diện, bền vững hơn, và tóm lại, đáng giá hơn. Đó là một khía cạnh của khái niệm sinh thái toàn diện mà ĐGH đưa ra: giá trị của việc hội nhập và hòa hợp cuộc sống của chúng ta với thế giới tự nhiên (số 225). Nó công nhận “vị trí độc nhất của con người trong thế giới này và quan hệ của chúng ta với những thứ xung quanh” (số 15), trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, trong lĩnh vực kinh tế và chính trị, trong nhiều nền văn hóa, đặc biệt những nền văn hóa đang bị đe dọa nhất, và trong mọi khoảnh khắc của đời sống hàng ngày của chúng ta.

Cụ thể, chúng ta không được quên những người nghèo là những người mà “cuộc sống của họ trên trái đất này thật ngắn ngủi và họ không thể chờ đợi mãi” (số 162). Trong thế giới hiện đại, nơi “càng ngày sự bất công càng lan tràn và càng nhiều người bị tước đoạt những quyền con người cơ bản, bị coi như dư thừa”, làm việc vì công ích có nghĩa là đưa ra những quyết định hành động trong tinh thần liên đới dựa trên “sự ưu tiên dành cho cho người nghèo” (số 158).

Công ích cũng có liên hệ các thế hệ tương lai. “Chúng ta không thể tiếp tục nói về phát triển bền vững mà không nói đến sự liên đới giữa các thế hệ” (số 159). Ở đây, trong bối cảnh bàn về sinh thái toàn diện, ĐGH Phanxicô kêu gọi sự chăm sóc dành cho trẻ em để trả lời cho một câu hỏi then chốt về vấn đề môi trường: “Chúng ta muốn để lại một thế giới như thế nào cho những thế hệ sau, cho những đứa trẻ đang lớn lên?” (số 160).

Kết luận

Tôi đã nói về việc loại bỏ tư duy truyền thống về thị trường – tư duy đánh lạc hướng sự chú ý đến vấn đề sự phát triển con người bền vững và toàn diện. Tuy nhiên, điều đó không phải là lời kêu gọi quay về chủ nghĩa lãng mạn tiền công nghiệp. Thay vào đó, những công cụ thị trường và kĩ năng của các chuyên gia trong thị trường đó phải được sử dụng để đạt đến sự phát triển con người toàn diện và phát triển bền vững. Tối đa hóa lợi nhuận không phải là bản chất của thị trường đúng nghĩa; tham nhũng, hối lộ và tàn ác không phải là bản chất của thị trường đúng nghĩa. Thực tế, điều ngược lại mới đúng. Sự quản trị tốt hơn nghĩa là sự thịnh vượng theo đúng nghĩa tăng lên. Cả các nhà lý thuyết truyền thống và hiện đại khi nói đến những nền tảng của thị trường đúng nghĩa đều chỉ ra những ưu điểm như sự tin tưởng, thành thực, liên đới, sự trao đổi qua lại và hợp tác. Nếu nói về những đặc điểm về thị trường, đúng ra người ta sẽ không nói đến sự đồi bại nhưng là những ưu điểm. Cho nên không có gì lạ khi chính việc thúc đẩy thị trường mang lại những kết quả đạo đức như công bình, bền vững và liên đới. Đó là điều tốt nhất mà các Mục tiêu Thiên niên kỷ trước đây và các Mục tiêu Phát triển Bền vững  hiện nay hướng đến và cố gắng đạt được.

Những hy vọng đó đồng điệu với lời giáo huấn của ĐGH Phanxicô. Nhiệm vụ vượt qua những khủng hoảng về mỗi trường và xã hội đòi hỏi một thái độ hoàn toàn khác – một cuộc cách mạng văn hóa, như Ngài nói. Nói như vậy, Đức Thánh Cha không muốn ngụ ý sự loại bỏ một cách ngây thơ đối với công nghệ và các lợi ích của xã hội hiện đại. Không, Ngài có ý đặt tài trí của con người vào việc xây dựng một mô hình phát triển tốt hơn – một mô hình lành mạnh hơn, mang tính nhân văn, xã hội và toàn diện hơn. Những ý tưởng đó mời gọi chúng ta vượt qua những ảo tưởng thường gặp khi nhìn nhaạn về sự hiện đại – đó là chủ nghĩa cá nhân, phát triển không giới hạn, cạnh tranh, chủ nghĩa tiêu thụ, thị trường vô kỷ luật. ĐGH Phanxicô kêu gọi sự phát triển bền vững. Đó còn là một tầm nhìn sâu sắc hơn đến những gì mà mô hình phát triển đó mang lại: Trái đất lại là một hành tinh xinh đẹp, là ngôi nhà cho mọi thế hệ tương lai. Để làm được như thế, chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa để chúng ta có thể làm việc với những người khác, trong sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nhằm làm cho Trái đất một lần nữa xứng đáng trở thành dấu chỉ của Thiên đàng. Dein Wille geschehe, wie im Himmel, so auf Erden –  Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời..

Hồng y Peter K.A. Turkson

P.B. dịch (từ zenit.org)

Chú thích

[1] Cảm ơn Anthony Annett (New York) and Robert Czerny (Ottawa) đã giúp soạn thảo và chỉnh sửa bài phát biểu này.

[2] ORDO SOCIALIS for the Promotion of Christian Social Teaching (Hiệp hội Trật tự Xã hội nhằm Thúc đẩy Giáo huấn về các vấn đề xã hội theo tinh thần Kitô giáo) http://ordosocialis.de/en/wir-ueber-uns/

[3] Tại Bad Honnef.

[4] Xem video bằng tiếng Anh tại http://thepopevideo.org/en.html

[5] Thông điệp Những Vấn đề mới (Rerum novarum), ĐGH Leo III (15/05/1891), số 22.

[6] Phát biểu tới Ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh (8/1/2007): AAS 99 (2007), 73. Phát biểu tới Ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh (8/1/2007)

[7] Phục sinh là một ví dụ về những hành vi tàn phá dẫn tới tình trạng gần như tuyệt chủng.

[8] Sau đây là những cải thiện đáng kể từ năm 1990:

 – sô người sống trong tình trạng vô cùng nghèo đói giảm gần một nửa, từ 1,9 tỷ xuống 836 triệu.

 – tỉ lệ người thiếu dinh dưỡng tại các quốc gia đang phát triển giảm gần một nửa, từ 23% xuống 13%

 –trẻ em dưới năm tuổi tử vong giảm hơn một nửa, từ 12,7 triệu xuống 6 triệu

 – tỷ lệ sản phụ tử vọng giảm 45%

 – số người nhiềm HIV mới giảm 40% trong giai đoạn 2000 – 2013. 13,6 triệu người nhận được sự điều trị kháng virus, so với 800.000 người vào năm 2003.

 –số người được cứu sống khỏi các dịnh bệnh: AIDS: 7,6 triệu người (1995 – 2013); sốt rét: 6,2 triệu người (2000 – 2015); lao: 37 triệu người (2000 – 2013).

 Nguồn: Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 2015 (Liên Hợp Quốc).

 2 tỷ người đã được tiếp cận với điều kiện vệ sinh tốt hơn.

[9] ĐGH Phanxicô, Phát biểu với Ngoại giao đoàn tại Tòa thánh, 11/01/2016.

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube

Liên kết