Chính sự khủng khiếp của cuộc khủng hoảng các giáo sĩ lạm dụng tình dục, sau cùng, sẽ tạo nên một thế hệ các linh mục mạnh mẽ hơn, hoặc ít nhất là hiểu rõ hơn các nguy cơ mà Giáo hội có thể phải đối mặt.

Cha Robert Kilner bên phải, cùng các chủng sinh của trường Giáo hoàng Học viện Bắc Mỹ gia một trận ném tuyết với các bạn học của họ từ Học viện Anh Quốc Đáng kính ở Quảng trường Thánh Phêrô tại Vatican sau trận tuyết rơi hiếm hoi vào ngày 26 tháng 2 năm 2018. (Ảnh Paul Haring/CNS)
Nếu gọi giai đoạn hiện tại là một khủng hoảng thực sự mà Giáo hội phải đối mặt thì cũng không có gì là quá đáng, nhưng xét trên phương diện thử thách đối với lòng trung trinh dành cho Chúa thì cuộc khủng hoảng này lại cho thấy nhiều điều thú vị do sự tương phản dữ dội trong cách phản ứng của mỗi người. Đối với một số người, nó có thể gây nên cơn giận giữ đến mức phẫn uất, với một số khác thì bối rối và tuyệt vọng, còn một số người khác nữa thì lại là cái nhún vai vì buồn chán.
Tuy nhiên, vẫn còn đó một số tập hợp những con người nhìn nhận cuộc khủng hoảng như là cơ hội thúc đẩy niềm khao khát được cải cách sâu sắc hơn của Giáo hội, thúc đẩy sự tập trung chặt chẽ hơn vào những điều cốt lõi và sự chèo lái cách mạnh mẽ để “con thuyền” Giáo hội trở về đúng hướng của nó.
Theo các giảng viên và sinh viên tại Giáo hoàng Học viện Bắc Mỹ ở Rôma (trường đào tạo các linh mục Mỹ tương lai ở Thành phố Vĩnh hằng), hiệu ứng tích cực trên hiện đang rất phổ biến đối với các chủng sinh ngày nay. Thật vậy, điều này cho thấy một khả năng trớ trêu rằng chính sự khủng khiếp của cuộc khủng hoảng các giáo sĩ lạm dụng tình dục, sau cùng, sẽ tạo nên một thế hệ các linh mục mạnh mẽ hơn, hoặc ít nhất là hiểu rõ hơn các nguy cơ mà Giáo hội có thể phải đối mặt.
“Không ai trong chúng tôi còn nghi ngờ gì về sự tồn tại của vụ bê bối này và những tổn thương mà nó gây ra” – Cha Peter Harman, linh mục của Springfield, Ill., và là giám đốc của Học viện Bắc Mỹ kể từ năm 2016, chia sẻ. “Tuy nhiên, tôi vững tin vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, và nếu điều này mang đến những lí do chính đáng hơn cho ước muốn trở thành linh mục của chúng tôi thì hãy cứ để mọi thứ diễn ra theo cách của nó.”
Cha Louis Masi, một linh mục sinh viên 28 tuổi đến từ New York chia sẻ rằng một trong những “lí do chính đáng” của việc trở thành linh mục ngày hôm nay chính là nỗ lực góp phần vào giải pháp của vấn đề và không làm cho vấn đề lớn thêm lên.
Cha Masi cũng chia sẻ với tạp chí Crux ấn tượng của mình về những người trẻ dấn thân vào đời sống tư tế và thánh hiến ngày nay “với khát khao góp phần mình vào một thế hệ sẽ trở nên dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ của sự thánh thiện và ánh sáng trong lòng Giáo hội”.
“Mặc dù tất cả những gì đang diễn ra trong Giáo hội đều có ảnh hưởng sâu sắc đến họ, nhưng theo cách nào đó, nó cũng là một sự khẳng định mạnh mẽ hơn cho ơn gọi của họ nhờ nhận ra được rằng nếu họ vẫn giữ được sự khát khao trong tim ngay cả khi đang sống giữa những khó khăn, thì việc đáp lại lời mời gọi không phải chỉ là sự kiện mang tính chất cá nhân hay hoàn cảnh, nhưng là đáp lại lời mời gọi thực sự đến từ Thiên Chúa” – Cha nói thêm.
Cha Harman và ba sinh viên tại Giáo hoàng Học viện Bắc Mỹ đã chia sẻ với tạp chí Crux vào cuối tháng Tư, trong không khí của một bữa ăn trưa nhân dịp chào đón hai thầy mới được truyền chức phó tế trở lại nhà học viện sau chuyến đi về Mỹ. Những tiếng reo hò vang khắp nhà ăn đã nói lên rất nhiều điều về tinh thần tập thể được bồi dưỡng ở học viện này.
Giáo hoàng Học viện Bắc Mỹ, với số lượng sinh viên hiện tại khoảng 212 người, có thể được gọi theo cách ví von là “Đại học West Point của Giáo hội Mỹ”, nhưng cũng là nơi đang cố gắng hết sức để chống lại bất cứ hình thức ưu tiên hay chủ nghĩa ưu việt nào. Điều này có lẽ là đặc biệt quan trọng trong thời đại Đức Giáo hoàng Phanxicô, khi mà “Chủ nghĩa Giáo sĩ trị” – nghĩa là các giáo sĩ phải được hưởng những đặc quyền hay được tôn kính – đã trở thành một điều cấm kỵ.
Luôn cố gắng bồi dưỡng sự khiêm nhường đúng mực đối với các sinh viên, nhưng học viện này chắc chắn sẽ có thể gặt hái được những chủng sinh thuộc thế hệ tốt nhất và tươi sáng nhất trong tất cả những thế hệ chủng sinh của Mỹ từ trước tới nay – cũng có nghĩa rằng đây là nơi tốt để có thể đánh giá được suy nghĩ và cảm xúc của những nhà lãnh đạo Giáo hội tương lai nhiệt huyết nhất và biết suy tư nhất của đất nước này.
Joshep Ferme, 25 tuổi, chủng sinh năm nhất đến từ Boston, là người sinh ra và lớn lên ở Long Island (để biết rằng anh là người Mỹ chính hiệu của xứ sở bóng chày Beantown), nói rằng bất cứ ai anh biết đều công nhận những thiệt hại mà vụ bê bối tình dục đã gây ra.
“Mọi người [ở tại Học viện Bắc Mỹ] không trốn tránh vấn đề hay giả vờ rằng những điều như thế không tồn tại, hoặc rằng không có cuộc đấu tranh vào đang diễn ra bên trong Giáo hội. Nhưng bên cạnh đó, vẫn luôn có một niềm vui và niềm hy vọng lớn lao cho những người đang hướng tới đời sống thánh hiến” – anh Ferme cho biết.
“Họ nhận ra những gì Giáo hội thực sự cần vào thời khắc lịch sử này của chúng ta chính là những linh mục tốt lành và thánh thiện, những người thực sự coi trọng việc rèn luyện để trưởng thành” – Ferme nói thêm.
Cha Harman cho biết rằng vì rất nhiều sinh viên Cha đang chịu trách nhiệm hướng dẫn vẫn đang ở độ tuổi khoảng từ 25-30, nên về cơ bản họ không hiểu hết được một Giáo hội không sợ hãi trước cuộc khủng hoảng lạm dụng – và Cha cũng tin rằng các linh mục tương lai buộc phải trở nên sâu sắc hơn về vấn đề này.
“Khi tôi đến học tại Học viện vào năm 1995, tôi đã là một chủng sinh tương đối tốt lành” – Cha nhớ lại. “Vào thời điểm đó tôi chỉ làm những việc được giao, cố gắng đạt điểm tốt và sôi nổi trong các hoạt động cộng đồng và bấy nhiêu đã đủ để tôi hoàn thành việc học”.
“Tôi nghĩ những chủng sinh hiện tại buộc phải có đời sống cầu nguyện cá nhân sâu sắc khi suy gẫm về Chúa Giêsu và Lời của Ngài hơn cả những gì trước đây tôi đã thực hiện. Theo tôi, các chủng sinh thực sự cam kết thực hành nuôi dưỡng điều đó trong cuộc sống của họ. Họ nhận thấy một đời sống như vậy là tuyệt đối cần thiết” – Cha Harman nói.
Cha Harman cũng nhấn mạnh rằng dù có tinh thần sốt mến nhưng không có nghĩa là các chủng sinh này không phải gánh chịu những tổn thương.
“Là những người thuộc thế hệ mà sự uy tín đang bị mờ nhạt đi, những chủng sinh này thực sự bị lung lay trong việc trông cậy và tin tưởng vào người khác” – Cha chia sẻ và cũng giải thích thêm rằng phương pháp của Cha là yêu cầu các chủng sinh dành ít thời thời gian hơn cho blogs và các phương tiện truyền thông; đồng thời, dành nhiều thời gian hơn để xem xét lại đời sống cá nhân và môi trường sống xung quanh nhằm phân định xem ai và điều gì sẽ xứng đáng với niềm tin của họ.
Một phần quan trọng khác là giúp đỡ cho các chủng sinh hiểu rõ những điều được kỳ vọng nơi chính họ.
“Tôi cũng nói với các chủng sinh rằng việc đảm bảo gìn giữ đời sống độc thân hay tuân thủ các điều luật của Giáo hội ở Học viện này tất nhiên là việc mà Cha hiệu trưởng sẽ phải làm. Nhưng tôi cũng nói thêm rằng việc sống những giá trị đó là trách nhiệm của tất cả mọi người. Nếu các anh không cam kết nghiêm túc tuân giữ thì chúng ta chia đôi tiền vé taxi đến sân bay Fiumicino để các anh về nước.”
Cha Harman ước tính rằng cho đến thời điểm một tân linh mục rời khỏi Giáo hoàng Học viện Bắc Mỹ, thì người đó đã phải trải qua khoảng 100 giờ học hỏi về đời sống độc thân và khiết tịnh, về những ranh giới của sự thân mật gần gũi, và về phát triển tâm-sinh lý, cũng như được phổ biến các qui định về chống lạm dụng của các Đức Giám mục Mỹ.
“Tôi có thể nói rằng tất cả các chủng sinh tôi biết đều xem xét nghiêm túc những vấn đề này và cảnh giác về các nguy cơ có thể xảy đến” – Cha Harman nói.
Vị linh mục này cũng bày tỏ nỗi thất vọng khi chứng kiến các chủng viện quá thường xuyên bàn luận dựa trên những dẫn chứng về nguyên nhân dẫn đến các vụ lạm dụng trong quá khứ, nhưng lại quên mất rằng mọi chuyện ngày nay có khuynh hướng rất khác biệt.
Chẳng hạn như tra hỏi về các tin đồn liên quan tới “giới đồng tính luyến ái” hay các “giáo sĩ đồng tính nam” trong nội bộ các chủng sinh hiện nay về cơ bản là bất hợp lý.
“Có rất nhiều những con người tốt lành trong Học viện của chúng tôi cũng như ở các đại chủng viện khác, và nếu có chuyện gì đó nghiêm trọng xảy ra thì chính những người đó sẽ không im lặng chịu đựng. Họ sẽ thẳng thắn nói rằng đây là điều mà họ không thể chấp nhận được. Họ tương đối nhạy cảm với các rắc rối xảy đến với bản thân. Vì vậy, tôi không nghĩ rằng các chủng sinh hiện nay sẽ im lặng cho qua hoặc không báo cáo các vấn đề này.”
Cha Colin Jones, một linh mục sinh viên 27 tuổi từ Tổng giáo phận Minneapolis-St. Paul, một nơi bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề bởi các vụ bê bối, đã thừa nhận rằng những điều đó đã gây nên sự đau đớn.
“Thật đau đớn khi có những cố vấn, những người đứng đầu bị hạ bệ vì liên quan đến những chuyện như vậy. Và vẫn còn nhiều câu hỏi cần được giải đáp trước khi có thể đi đến “kết luận mà mọi người mong muốn” – Cha chia sẻ.
Tuy nhiên Cha Jones cũng nhấn mạnh rằng câu trả lời nằm trong việc quay về với gốc rễ của vấn đề.
“Cha linh hướng của tôi đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Ngài buộc tôi phải tự đặt ra những câu hỏi như ‘Đời sống thánh hiến là gì? Đời sống như vậy tập trung vào điều gì?’ Tôi không trông cậy vào Cha giáo, hay Đức Tổng Giám mục của tôi hay các linh mục khác. Nhưng Đấng tôi trông cậy chính là Chúa Giêsu.”
Khi khảo sát về bức tranh tổng thể của Giáo hội, anh Ferme (chủng sinh năm nhất) chắc hẳn cũng nhận thấy ngọn lửa âm ỉ từ đống tro tàn của các vụ bê bối. Anh chia sẻ: “Với vị thế hiện tại của Giáo hội, người ta thực sự rất cần được nhìn thấy những con người dám tận hiến cho Giáo hội, sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời mình với niềm tin và sự quyết tâm tự nguyện, không chỉ cho Giáo hội nhưng là cho tất cả mọi thành phần dân Chúa.”
Và với cảm thức ấy, anh tuyên bố cách rõ ràng và mạnh mẽ rằng “Đây là thời khắc tuyệt vời để sống trong Giáo hội.”
John L. Allen Jr.
Huỳnh Phi chuyển ngữ