
Khung cảnh nhà thờ Plei Chuêt 2024 – Nguyễn Khánh Vũ Khoa
Trong niềm vui của năm Thánh 100 năm Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) hiện diện tại Việt Nam, DCCT vùng Tây Nguyên sẽ tổ chức Đêm diễn nguyện (31/07/2025) với chủ đề: “Anh em hãy đi…” (x. Mt 28,19) và Thánh lễ tạ ơn (01/08/2025) tại Giáo xứ Plei Chuêt. Nhân dịp này, chúng ta cùng tìm hiểu sơ lược lịch sử hình thành Giáo xứ và nhất là “câu chuyện hội nhập văn hóa” của người Jrai tại ngôi thánh đường này.
- LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH GIÁO XỨ PLEI CHUÊT
Theo chứng từ của chị Maria Ksor H’khel[1] thì những người theo Đạo Công Giáo sớm nhất xuất hiện tại Plei Chuêt chính là bố mẹ của chị. Bố của chị là ông Paulô Klứk, người Bahnar ở Plei Rơhai (Kontum); lấy mẹ của chị là người Jrai ở làng Plei Chuêt. Chính ông Paulô Klứk đưa mẹ của chị lên Kontum học Đạo và sau một năm thì được Rửa Tội, Thêm Sức và làm phép hôn phối năm 1968. Sau đó, gia đình đã trở lại Plei Chuêt để sinh sống. Những người con đầu của ông bà hồi đó, đều được đưa lên Kontum để chịu phép Thanh Tẩy. Ông Paulô Klứk là người nhiệt thành với Đạo Chúa, vì thế ông hăng hái loan truyền Tin Mừng đến cho mọi người, cả ở Kontum (trước đó) và sau này tại các làng khu vực Plei Chuêt. Vào thời điểm đó (1968-1969), theo những gì mà chúng tôi nghe được từ những người cao niên, khu vực Plei Chuêt đã có nhiều người theo Tin Lành.
Lòng nhiệt thành của ông Paulô Klứk và những người mới theo Đạo đã làm cho nhiều người Jrai trong các buôn làng tin vào Chúa. Chưa có sách Kinh, Kinh Thánh tiếng Jrai, ông đã dạy các con và những người tin theo đọc các Kinh, Kinh Thánh bằng tiếng Bahnar. Đến năm 1971, ông Paulô Klứk xin Cha Thức[2] cho linh mục về giúp người Jrai, Bahnar lúc đó đã có những người thuộc 5 làng, biết và theo Chúa nhưng chưa chịu Thanh Tẩy. Cha Thức liền giới thiệu Cha Antôn Vương Đình Tài, DCCT vốn đã sống với người Jrai, biết tiếng Jrai và đang ở nhà “Maranatha” thuộc làng Pleiku Roh.
Nhờ sự giới thiệu của Cha Thức, ông Paulô Klứk đã qua nhà “Maranatha” để gặp Cha Antôn Vương Đình Tài, mời ngài về Plei Chuêt và Cha Antôn đã nhận lời. Một chân trời mới của sứ vụ thừa sai mở ra, hứa hẹn một mùa lúa bội thu, nhưng trước mắt còn muôn vàn khó khăn. Thời gian đầu, Cha Tài qua thăm mục vụ, tập trung “giáo dân” trong một số gia đình quen biết để dâng lễ và giảng bằng tiếng Jrai; bắt đầu có người phụ tập hát những bài thánh ca; tìm những người cao niên, có học vấn, uy tín để trao đổi học hỏi văn hóa Jrai. Qua năm 1972, Cha Tài quyết định rời nhà “Maranatha” để tới Plei Chuêt. Ngài đã dựng một nếp nhà tranh, trên mảnh vườn nhà ông Răk để “ở nhờ”.
Từ khi ở tại làng, việc loan báo Tin Mừng tiến triển mau chóng hơn, nhu cầu cần một nhà nguyện cũng vì thế mà cấp bách hơn. Cha Tài và ông Paulô Klứk đã mua một nếp nhà cũ và mang về dựng nhà nguyện tại vùng đất trũng của làng. Cha Tài cũng làm một cây thánh giá trồng ở gần nhà nguyện, trên mỏm đất cao nhất. Cha Gioan Nguyễn Trí Thức (Hạt trưởng Hạt Pleiku) đã làm phép thánh giá và nhà nguyện đầu tiên của Plei Chuêt. Trong khoảng thời gian ngắn, ngôi nhà nguyện đầu tiên đã bắt đầu không đủ sức chứa; ngoài ra vì làm ở vùng đất trũng nên mùa mưa, giáo dân đi lễ, cầu nguyện gặp nhiều điều bất tiện. Chính vì thế, ước mơ về một ngôi nhà nguyện mới, lớn hơn và ở khu đất cao ráo hơn lại trở nên cấp thiết.
Khu đất nhà thờ Plei Chuêt tọa lạc hiện nay chính là khu đất trống xưa của làng được sử dụng vào việc dựng các kho lúa của người Jrai[3]. Nhờ Cha Tài khuyên nhủ, minh chứng rằng việc để kho lúa ở nhà mình không bị Yang (Thần) phạt vì mình đã theo Chúa rồi; đồng thời khu đất trống ấy rất thích hợp để dựng ngôi nhà nguyện mới. Năm 1974, Cha Antôn đã cho giáo dân quyên góp, sau khi họp bàn và đã dựng được một nhà nguyện với tường làm bằng gạch đá và lợp mái tôn. Lễ Chúa Phục Sinh năm 1974, Đức Cha Paul Seitz (Kim) đã tới làm phép nhà nguyện mới; đồng thời ngài cũng cử hành nghi thức Xức dầu dự tòng cho những anh chị em bắt đầu bước vào thời gian “học Đạo” một cách chính thức. Cha Tài cũng không quên mang cây thánh giá ở nhà nguyện đầu tiên về nơi đây để dựng lại.

Cha Antôn dâng lễ trong Nhà nguyện cũ Plei Chuêt- Hình ảnh tư liệu Giáo xứ

Nhà nguyện Plei Chuêt cũ nhìn bên ngoài – Hình ảnh tư liệu Giáo xứ
Những anh chị em Jrai theo “học Đạo” với Cha Tài, và cầu nguyện với Kinh Thánh cùng những anh chị em khác thường kéo dài vài năm. Vì thế, phải đến năm 1976 Cha Tài mới cử hành Bí tích Thanh Tẩy cho 12 người đầu tiên (7 nam, 5 nữ), biểu tượng cho 12 chi tộc Israel và cũng là 12 “tông đồ” của Chúa. Cũng như các Tông đồ ngày xưa, khởi đầu như nhúm men trong hũ bột trần gian, Chúa đã sai các ngài ra đi loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất, thì nay Chúa cũng sai các Kitô hữu “tiên khởi” này loan Tin Mừng cho chính những anh chị em Jrai chưa biết Chúa khắp vùng Pleiku và phụ cận. Năm 1976 cũng là năm đánh dấu việc Plei Chuêt trở thành Giáo điểm truyền giáo chính thức của Giáo phận Kon Tum.

Hình ảnh Cha Antôn Vương Đình Tài cử hành bí tích Thanh Tẩy
Từ khởi đầu nhỏ bé, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, Cha Antôn đã cùng anh chị em giáo dân đi vào các buôn làng, cầu nguyện với Lời Chúa, thăm hỏi, động viên anh chị em tín hữu, nhờ đó những người biết và theo Chúa ngày một đông. Nhờ ơn Chúa và sự nỗ lực không mệt mỏi, đến năm 1995, đứng trước tình hình thực tế, đã đến lúc Cha Antôn phải thành lập một Trung Tâm Loan Báo Tin Mừng cho người Jrai ở vùng Pleiku và phụ cận. Mỗi làng tùy theo địa bàn cư trú, cha Antôn đã phân chia thành các vùng sau: Vùng Pleiku có 06 làng; khoảng 3.000 tín hữu; Vùng Ia Grai có 33 làng, khoảng 2.500 tín hữu; Vùng Ia Tơnueng có 10 làng, khoảng 1.000 tín hữu; Vùng Ia Ly có 25 làng, khoảng 2.500 tín hữu; Vùng Chư Hơdrông có 14 làng, khoảng 1.000 tín hữu.

Cha Antôn chuẩn bị cử hành Bí tích Thanh Tẩy – Hình ảnh tư liệu Giáo xứ
Trong 5 vùng thuộc Trung Tâm Loan Báo Tin Mừng Plei Chuêt thì chỉ có Plei Chuêt và Plei- Kuroh có nhà thờ (nhà nguyện), còn các làng khác thì chỉ hội họp ở trong các gia đình. Vì thế, Cha Antôn đã mong ước có được một nhà thờ ở trung tâm. Sau nhiều năm thi hành sứ vụ thừa sai, sức khỏe và tuổi tác khiến Cha Antôn lực bất tòng tâm. Cha đã xin Nhà Dòng cho Thầy Bartôlômêô Nguyễn Đức Thịnh đến giúp đỡ công việc của trung tâm. Năm 2000, Thầy Batôlômêô đến ở Plei Chuêt và được anh chị em Jrai đặt tên là Rahlan Dăm Pun. Sau thời gian học hỏi, làm việc mục vụ, ngày 25 tháng 03 năm 2003, Cha Batôlômêô đã thay Cha Antôn làm quản nhiệm Trung Tâm Loan Báo Tin Mừng Plei Chuêt.

Cha Bart. Nguyễn Đức Thịnh và Cha Antôn Vương Đình Tài, trong ngày khởi công xây dựng nhà thờ Plei Chuêt 01/08/2003 – Hình ảnh tư liệu Giáo xứ
Hiểu rõ được ước nguyện của Cha Antôn, cũng như nhu cầu thực tế của một Trung Tâm Loan Báo Tin Mừng, Cha Bartôlômêô đã quyết định khởi công xây dựng nhà thờ Plei Chuêt. Ngày 01 tháng 08 năm 2003, lễ đặt viên đá đầu tiên nhà thờ Plei Chuêt, do Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung, Giám mục Giáo phận Kontum cử hành. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Thánh lễ tạ ơn cho việc khởi công do Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum chủ sự. Sau đó công việc xây dựng bắt đầu dưới sự cộng tác của anh Lâm (kỹ sư), anh Phúc (kiến trúc sư), Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành, DCCT (kiến trúc sư), các già làng cùng những người thợ là giáo dân Plei Chuêt.

Xây dựng nhà thờ Plei Chuêt – Hình ảnh tư liệu Giáo xứ

Xây dựng nhà thờ Plei Chuêt – Hình ảnh tư liệu Giáo xứ

Xây dựng nhà thờ Plei Chuêt – Hình ảnh tư liệu Giáo xứ

Xây dựng nhà thờ Plei Chuêt – Hình ảnh tư liệu Giáo xứ
Sau một năm chín tháng, trải qua biết bao nhọc nhằn, thiếu thốn, khó khăn mọi mặt, Cha Bartôlômêô cùng với các kỹ sư, kiến trúc sư, thợ làng, cùng với sự đóng góp của quý vị ân nhân; đã hoàn thành công trình Nhà thờ Plei Chuêt và được khánh thành vào ngày 01 tháng 09 năm 2005, do Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh chủ sự. Nhà thờ Plei Chuêt được dâng kính cho Chúa Thánh Thần (thánh đường Pentêkôs) và Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Hằng Cứu Giúp là Đấng bảo trợ.

Hai bức phù điêu Chúa Thánh Thần và Mẹ Hằng Cứu Giúp ở hai đầu hồi nhà thờ Plei Chuêt – Nguyễn Khánh Vũ Khoa 2024

Hai bức phù điêu Chúa Thánh Thần và Mẹ Hằng Cứu Giúp ở hai đầu hồi nhà thờ Plei Chuêt – Nguyễn Khánh Vũ Khoa 2024
- CÂU CHUYỆN HỘI NHẬP VĂN HÓA
Cha Bartôlômêô Nguyễn Đức Thịnh đã hội ý với các già làng và quyết định sẽ xây dựng nhà thờ theo mô hình Nhà Rông (Jrai – Bahnar). Nhà rông đặc biệt phổ biến ở một số tộc như Bahnar, Xơ-đăng, Giẻ-triêng, Rơ-măm, Brâu… Các tộc người này đều thuộc Ngữ hệ Nam Á, cụ thể hơn là Môn-Khmer. Người Jrai cùng với 4 tộc người khác là Chăm, Churu, Êđê, Raglai lại thuộc Ngữ hệ Nam Đảo. Điều đặc biệt, chỉ duy nhất tộc người Jrai trong nhóm Ngữ hệ Nam Đảo là có nhà rông. Theo Nguyễn Khắc Tụng: “Trên cao nguyên này, đây là trường hợp duy nhất có một nhóm cư dân thuộc ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia có nhà rông. Không rõ họ đã học người Ba-na, Xơ-đăng hay từ xa xưa họ có nhà rông rồi (?). Bởi lẽ cùng sống trên cao nguyên này, cùng ngôn ngữ mà người Ê-đê – một dân tộc có số dân khá lớn ở cao nguyên – lại không có nhà rông”.[4] Cá nhân tôi cũng cùng một câu hỏi như Nguyễn Khắc Tụng, vì “nhà rông – nhà cộng đồng” của người Jrai là “nhà dài”, đặc biệt ở vùng Cheoreo, chứ không phải cao như người Bahnar. Vì thế, rất có thể, người Jrai ở vùng Pleiku đã học làm nhà rông theo kiểu của người Bahnar.
Quyết định của Cha Bartôlômêô cùng với các già làng là phải xây dựng nhà thờ theo mô hình nhà rông là hợp lý, vì đây là vùng Pleiku, ráp gianh với Kontum; người Bahnar và người Jrai vùng này có nhiều mối liên hệ từ xa xưa. Việc giao lưu, có thể có cả tiếp biến văn hóa của người Jrai và Bahnar là một thực tế không thể tránh khỏi. Mặt khác, xét về không gian và truyền thống xây dựng nhà thờ của Giáo hội Công Giáo; cần phải có đủ chỗ tương đối cho giáo dân, cần phải là một biểu tượng dễ dàng nhìn thấy từ xa; đồng thời cũng đáp ứng ý nghĩa văn hóa, xã hội, khi nhà rông – nhà thờ trở thành nơi quy tụ của cộng đồng buôn làng để thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất. Trong văn hóa truyền thống của người Jrai, nhà rông có nhiều chức năng: là nơi quy tụ dân làng để tổ chức lễ hội, là nơi để bàn bạc các việc chung, nơi xử án theo luật tục, các thanh niên trong làng đến ngủ mỗi tối để canh gác và bảo vệ buôn làng. Ngoài ra nhà rông còn là niềm kiêu hãnh của từng buôn làng, theo Nguyễn Khắc Tụng, “nhà rông của người Gia-rai có chiều hướng thu chiều dài lại để nâng chiều cao lên. Với quy cách đó đã làm cho nhà rông Gia-rai thêm bề thế, hoành tráng; phải chăng là thể hiện cái hùng vĩ của cao nguyên”.[5]
Ngoài sự bề thế của công trình Nhà thờ Plei Chuêt; lớn gấp 5 lần nhà rông bình thường với chiều cao từ mặt móng lên tới đỉnh mái là 35m, diện tích sàn (lòng nhà thờ) khoảng 400m2; ý nghĩa thực sự của công trình lại tập trung vào việc hội nhập văn hóa truyền thống của người Jrai từ bên ngoài đến bên trong của nhà thờ.
Lưỡi rìu và con thuyền
Mái nhà rông như một lưỡi rìu khổng lồ chĩa thẳng lên trời. Đây không phải là một nhận định ghán ghép, hoặc hình tượng hóa nghệ thuật nhưng là hiện thực. Người Jrai có tính cách mạnh mẽ, bản lĩnh, không chỉ được ghi nhận trong những nghiên cứu của các nhà khoa học mà còn từ các nhà truyền giáo. Nhà thờ Plei Chuêt là công trình dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa của các Kitô hữu Jrai, chính vì thế cũng cần phải thể hiện được sự uy nghiêm của một công trình tôn giáo.

Nhà rông Jrai so sánh với hình lưỡi rìu được tìm thấy ở Hang Rào [6]
Nhìn từ phía trước, chúng ta thấy mái nhà thờ như một mặt phẳng, nhưng thực tế toàn bộ mái được uốn cong (3 chiều) như hình cánh buồm của một con thuyền. Một mặt bảo đảm sự vững chãi của nhà thờ với diện tích mái lớn và cao giữa vùng đất Tây Nguyên lộng gió. Mặt khác, hình ảnh con thuyền Hội Thánh lại rất gần gũi với truyền thống Công Giáo. Giáo hội được ví như con thuyền cứu độ (x. Lc 5,1-11). Trên con thuyền này có Thiên Chúa như là thuyền trưởng, có thánh Phêrô như là người đại diện của Chúa để lèo lái con thuyền. Nơi đó cũng có các thành viên như là những người cùng nhau ra khơi để “bắt cá”. Từ Giáo hội sơ khai, con thuyền này được hiểu như “con thuyền cứu độ – the ship of salvation”.[7]
Mặt trước Nhà thờ Plei Chuêt 2025 – Nguyễn Thanh Tú
Cây đàn của vua Đavít, bầu nước và chiếc gùi
Từ dưới sân đi theo cầu thang chính lên tiền sảnh nhà thờ, chúng ta thấy ngay đầu cầu thang, hai bên là hai trụ cách điệu hình cây đàn của vua Đavít. Đàn của vua Đavít sử dụng là đàn hạc (harp), nhưng ở đây ngoài việc cách điệu cây đàn, Cha Bartôlômêô còn cho gắn thêm cồng chiêng (ching chêng). Cồng chiêng là nhạc cụ truyền thống không thể thiếu trong các lễ hội, nghi lễ truyền thống của người Jrai. Biểu tượng này nhắc nhở tất cả mọi người khi tới nhà Chúa thì mang lấy tâm tình ca tụng Người hết lòng. Như vua Đavít xưa đã chơi đàn, ca hát, nhảy mừng khi rước Hòm Bia Thiên Chúa. “Vua Đa-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua Đa-vít, trong niềm hân hoan. Khi những người khiêng Hòm Bia của Đức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa.” (2 Sm 6,12-14).

Cầu thang chính Nhà thờ Plei Chuêt 2025 – Nguyễn Thanh Tú
Ở khoảng giữa cầu thang, nhìn về hai bên chúng ta thấy chiếc gùi và bầu nước, hai vật dụng rất thân thiết với người Jrai. Người Jrai hiểu rất rõ ý nghĩa của nước đem lại sự sống cho tộc người của họ. Tộc danh “Jrai” cũng có nghĩa là “thác”, gắn với địa hình “sông núi”, gắn với “nước”. Các buôn làng người Jrai đều định cư ở khu vực gần với sông, suối, thác… Mỗi khi cần di chuyển buôn làng, già làng là người tiên phong đi tìm đất mới, và một trong những điều kiện không thể thiếu là vị trí khu đất phải gần với nguồn nước dồi dào, đất đai phì nhiêu. Hình ảnh “nước” trong Kinh Thánh lại rất phong phú, như trong Cựu Ước: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây!”(Is 55,1). Và trong Tân Ước, Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu hứa ban thứ nước thật là sự sống đời đời cho người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp (Ga 4,13-14; 6,56; 7,39; 8,37). Uống nước Đức Giêsu ban chính là tin vào Người (Ga 7,38). Nước và máu tuôn chảy từ cạnh sườn Đức Giêsu, chỉ phép Thanh tẩy (Ga 19,34). Còn thánh Phaolô lại nhấn mạnh phép rửa các Kitô hữu lãnh nhận giải thoát họ khỏi tội lỗi để thuộc về Đức Kitô, cùng chịu mai táng với Người để sống lại trong đời sống mới theo Thần Khí. (Rm 6,3-11; 8,5-11; Gl 3,27). Hình ảnh bầu nước vừa nhắc nhở anh chị em Jrai nhớ đến văn hóa truyền thống của mình, đồng thời cũng nêu bật ý nghĩa trọng tâm của đời sống Kitô hữu.

Gùi – Nguyễn Thanh Tú 2025

Bầu nước – Nguyễn Thanh Tú 2025
Để đặt được chiếc gùi lên thành lan can của cầu thang này, Cha Bartôlômêô phải nỗ lực thuyết phục các già làng. Bởi vì, các già làng khẳng định, cầu thang lên nhà rông của người Jrai luôn treo hai bầu nước, chứ không có gùi. Cha Bartôlômêô chia sẻ với các già làng: ‘Bây giờ mình theo Chúa rồi, nhà rông là nhà thờ phượng Chúa, mình đặt chiếc gùi ở đây với ý nghĩa như Lời Chúa dạy: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28); vả lại, trong đời sống hằng ngày, các già làng không thấy rằng, từ khi còn rất nhỏ, các bé gái Jrai đã được làm cho một chiếc gùi để lên rừng, lên rẫy với cha mẹ!? Cho tới khi lớn lên, chiếc gùi hữu dụng như thế nào trong đời sống hàng ngày; ngay cả khi đã chết, chiếc gùi cũng được treo ngoài phần mộ!? Giờ đây, mỗi khi tới nhà thờ này, chiếc gùi nhắc nhớ những lao nhọc trong đời sống thường ngày của anh chị em, mọi nỗi vui buồn được đặt vào đây để dâng lên Thiên Chúa của chúng ta.
Các già làng cùng lắng nghe và đồng ý với những giải thích của Cha Bartôlômêô, đồng thời còn thêm rằng: từ nay “anh” cứ làm, không cần phải hỏi chúng tôi nữa! Câu nói này đầy ý nghĩa, thể hiện sự tin tưởng của các già làng với Cha Bartôlômêô; một người đã đặc biệt tôn trọng văn hóa Jrai, cũng là một linh mục của Chúa.
Biểu tượng mặt trời, hoa văn và màu sắc truyền thống
Đi hết cầu thang chính dẫn lên tiền sảnh nhà thờ, nhìn lên trên trần chúng ta sẽ thấy biểu tượng mặt trời (ở giữa hình vuông, xung quanh có 8 cánh) trong văn hóa truyền thống của người Jrai. Không chỉ người Jrai, biểu tượng mặt trời xuất hiện trong hầu hết các nền văn hóa của các tộc người trên thế giới. Biểu tượng mặt trời tượng trưng cho ánh sáng đem lại sự sống; mùa màng bội thu; xua tan bóng tối và sự sợ hãi; có sức mạnh bảo vệ buôn làng; cho sự mạnh mẽ, dũng cảm và gan dạ. Người Jrai tôn kính mặt trời trong các nghi lễ, trở thành các họa tiết không thể thiếu trong nhà rông, bình rượu ghè, áo thổ cẩm (nam) và nhiều vật phẩm khác. Chính vì thế, Cha Bartôlômêô đã đặt biểu tượng vào những nơi quan trọng như trần tiền sảnh, nhà tạm, đồng thời cũng là họa tiết trang trí viền mái và trên các cánh cửa của nhà thờ.
Chọn lựa của Cha Bartôlômêô phù hợp với Lời Chúa và truyền thống của Giáo Hội Công Giáo. Trong Cựu Ước, Ngôn sứ Malakhi đã loan báo Đấng là mặt trời công chính sẽ mọc lên chiếu sáng cho dân Ítraen: “Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh.” (Ml 3,20); và Giáo hội luôn coi Đức Giêsu Kitô chính là Mặt trời công chính, chiếu sáng ơn cứu độ cho trần gian. Như Tin Mừng theo thánh Gioan khẳng định: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9).

Áo (nam) của người Jrai ở phía Đông Nam của tỉnh Gia Lai thường được đắp thêm một tấm vải màu đỏ ở trước ngực, tượng trưng cho sự mạnh mẽ, gan dạ, dũng cảm của người đàn ông. Đây cũng là biểu tượng tượng trưng cho mặt trời. – Hình ảnh: www.baodantoc.vn

Trần tiền sảnh Nhà thờ Plei Chuêt 2025 – Nguyễn Thanh Tú

Nhà tạm, bên trong nhà thờ Plei Chuêt 2025 – Nguyễn Thanh Tú

Cánh cửa nhà thờ Plei Chuêt 2025 – Nguyễn Thanh Tú

Viền mái nhà thờ Plei Chuêt – Hình ảnh: www.vnexpress.net
Các họa tiết (mô-típ) trang trí phổ biến của người Jrai như hình thoi, đường thẳng, đường cong, mái nhà mồ, rau dớn (k’toanh), chân rết… được khắc trên nhà ở, nhà mồ, cây nêu và phổ biến trên trang bộ phục truyền thống của cả nam và nữ. Màu sắc chủ đạo của người Jrai có 4 màu: đen, đỏ, vàng và trắng. Một số nhà nghiên cứu nói là 5 màu, thêm màu xanh dương đậm. Tuy nhiên, hai màu nổi bật và quan trọng nhất là màu đen và đỏ. Cha Bartôlômêô đã sử dụng các họa tiết trang trí và màu sắc chủ đạo trong văn hóa truyền thống của người Jrai vào nhà thờ Plei Chuêt.
Bàn thờ, con trâu và cây nêu
Lễ hội đâm trâu[8] là lễ hội khá phổ biến trong các tộc người ít người ở Việt Nam. Người Jrai cũng có lễ hội đâm trâu, thường được tổ chức vào dịp mừng chiến thắng, sau 1 năm khi di chuyển buôn làng tới vùng đất mới, hoặc theo chu kỳ 7 năm. Người Jrai vùng Pleiku gọi lễ hội đâm trâu là “taih bong khan”. Một linh vật không thể thiếu trong lễ hội đâm trâu là cây nêu; cây nêu được xem là linh hồn của lễ hội, nơi các thần linh sẽ về ngự trị, chứng giám; con trâu chính là vật hiến tế.

Con trâu được buộc vào cây nêu bằng sợi dây bện từ nhiều sợi dây mây rất chắc chắn – Hình ảnh: www.bvhttdl.gov.vn
Nếu mọi người để ý thì sẽ thấy khu vực bàn thờ nhà thờ Plei Chuêt rất đặc biệt. Bàn thờ có hình dáng như một con trâu, phía dưới chân bàn thờ có một vòng dây lớn bện bằng nhiều sợi mây “buộc” vòng qua cây nêu nhỏ bên tay trái. Hình ảnh này tái hiện nghi lễ đâm trâu của người Jrai, nhưng bây giờ mặc lấy một ý nghĩa mới.

Hình ảnh bàn thờ, nhà thờ Plei Chuêt – Nguyễn Thanh Tú 2025

Hình ảnh bàn thờ, nhà thờ Plei Chuêt – Nguyễn Thanh Tú 2025
Đối với Giáo hội Công Giáo, bàn thờ là biểu tượng của chính Chúa Kitô đang hiện diện giữa và ở trong cộng đoàn tín hữu. Người hiện diện như hy lễ dâng lên để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa và như của ăn thiêng liêng nuôi sống dân của Chúa. Con trâu, vật hiến tế trong nghi lễ đâm trâu của người Jrai, cũng được dâng lên để tạ ơn thần linh, trời (Ơi Adai) và trở thành của ăn chia sẻ cho mọi người tham dự. Khi nhìn lên cung thánh, nhìn vào bàn thờ, các Kitô hữu Jrai cảm nhận được hạt giống Kitô đã được gieo trồng trong văn hóa của chính họ, để bây giờ những gì là tinh túy nhất lại được hội nhập vào nơi thờ phượng Thiên Chúa.
- LỜI KẾT
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: “Việc nhập thể của Ngôi Lời cũng là một sự nhập thể văn hóa” (Redemtoris Missio, số 52). Ngài nhấn mạnh rằng các nền văn hóa có thể đóng vai trò tích cực trong việc biểu đạt và mở rộng đức tin Kitô giáo. Thậm chí đức tin Kitô giáo không chỉ tương thích với các nền văn hóa mà còn là yếu tố động lực, thúc đẩy sự phát triển văn hóa theo hướng tốt đẹp hơn.
Ra đi với tinh thần của Công đồng Vatican II, các thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế đến với anh chị em Jrai để cùng ăn với dân, làm với dân, học với dân; và sống sứ vụ loan báo Tin Mừng. Các thừa sai không chỉ bảo tồn văn hóa Jrai, nhưng còn làm cho các giá trị văn hóa ấy được hội nhập và phát triển trong môi trường Kitô giáo.
Ngày lễ khánh thành Nhà thờ Plei Chuêt (01/09/2005) cũng là lễ giỗ 100 ngày của Cha Antôn Vương Đình Tài. Như Lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12,23). Chân dung vị thừa sai đã dấn thân cả cuộc đời cho sứ vụ loan báo Tin Mừng lại được tái hiện một cách rõ nét. Hiền lành nhưng đầy cương nghị, là một con người của “cầu nguyện” và hy sinh không ngừng; Cha Antôn đã chuyển trao những giá trị ấy cho thế hệ thừa sai kế tiếp và truyền lửa đức tin, văn hóa cho các Kitô hữu Jrai. Cha Bartôlômê Nguyễn Đức Thịnh đến Plei Chuêt vào đúng thời điểm để giữ mạch gắn kết quan trọng ấy, mạch đức tin và văn hóa. Nhờ sự trợ lực của Chúa Thánh Thần và Mẹ Hằng Cứu Giúp, một thánh đường với kiến trúc nhà rông Jrai – Bahnar đã được xây dựng và hoàn thành.
Ngày nay, từ quốc lộ 19, hướng từ Pleiku đi Qui Nhơn, từ xa người ta đã nhìn thấy một mái nhà rông sừng sững giữa Tây Nguyên bạt ngàn. Người ta thán phục ở mức độ quy mô, vẻ đẹp bên ngoài, sự khéo léo của các kiến trúc sư, sự vất vả của đội xây dựng; vâng tất cả điều đó là đúng. Nhưng không dừng lại ở đó, Nhà thờ Plei Chuêt còn trở thành biểu tượng của một cuộc Tin Mừng hóa văn hóa đáng trân quý và học hỏi.
Lm. Anphongsô Trần Ngọc Hướng, DCCT
(Phú Túc, 26/07/2025)
[1] Tư liệu văn bản (hồi ký) của gia đình ông Paulô Klứk.
[2] Cha Gioan Nguyễn Trí Thức, được bổ nhiệm Tổng đại diện Hạt Pleiku năm 1963. Chánh xứ Thăng Thiên từ 1960-1977. (BTT Gp. Kontum, Giáo xứ Thăng Thiên, hôm qua – hôm nay – ngày mai, lưu hành nội bộ, tr.06, 08/2011)
[3] Người Jrai có truyền thống để kho lúa của gia đình mình ở một khoảng đất chung với các kho lúa của các gia đình khác. Vì một vài kiêng kỵ với Yang Hri (Thần Lúa), họ không dám để kho lúa trong khu vực gia đình.
[4] PGS – PTS Nguyễn Khắc Tụng, Nhà rông các dân tộc bắc Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, 1991, tr. 62
[5] Sđd,… Nhà rông các dân tộc bắc Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, 1991, tr. 62-63
[6] Hình ảnh chụp lại từ sách:… Nhà rông các dân tộc bắc Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, 1991, tr. 63
[7] Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc S.J, Cùng nhau chèo chống con thuyền Giáo Hội, www.hdgmvietnam.com, (21/07/2025)
[8] Có một số nhà nghiên cứu, học giả đề nghị dùng từ “ăn trâu” để có thể bao quát toàn bộ hoạt động của lễ hội.