Một số người Công giáo cho rằng phản ứng tổng thể của Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ đã trở nên quá trầm lặng, so với tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng nhập cư hiện nay.

Khi chính quyền Trump đe dọa sẽ vây bắt những người nhập cư không có giấy tờ trên khắp nước Mỹ hồi giữa tháng 7, Guadalupe Pacheco (không phải tên thật của chị) ở Los Angeles đã cố gắng tập trung vào bất cứ điều gì khác ngoài chuyện người nhập cư không giấy tờ. “Tất nhiên, điều đó nằm sâu trong tâm trí tôi bởi vì tôi là một phụ nữ không có giấy tờ. Nhưng đó là một khoảnh khắc của cảm giác rằng tôi phải chọn lựa. Tôi có thể chọn ở nhà và xem tin tức hoặc chỉ tận hưởng cuộc sống của mình, rồi đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ”.
Nhưng những gì mà chị nhận thấy ở nhà thờ khiến chị thất vọng. “Tôi đã hy vọng các buổi cử hành sẽ bao gồm những lời cầu nguyện cho những người đang xin tị nạn. Nhưng họ lại hoàn toàn chẳng được đả động gì đến”.
Tại Mỹ, các Giám mục và các nhà lãnh đạo Giáo hội khác đã lên tiếng chống lại các chính sách tị nạn, chính sách giam giữ và nhập cư của chính quyền Trump. Nhiều Giáo phận đã huy động để cung cấp các dịch vụ cho những người bị đe dọa, từ việc điều hành các buổi hội thảo về cách ứng phó với hành động của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và hải quan cho đến việc cung cấp nơi trú ẩn khẩn cấp cho những người xin tị nạn. Nhưng chỉ có một vài nhà lãnh đạo Giáo hội đã vượt ra ngoài những tuyên bố để đối đầu với cách đối xử phi nhân đạo của chính quyền đối với những người nhập cư.
Một số người Công giáo cho rằng phản ứng tổng thể của Giáo hội đã trở nên quá trầm lặng, do tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng. Linh mục Bryan Phạm, S.J., là một giáo sư luật và Giáo luật tại Đại học Gonzaga ở Spokane và trước đây từng làm việc với tư cách là luật sư di trú tại Phòng Tư pháp Di dân Loyola ở Los Angeles. Tại các trường cao đẳng và đại học Công giáo, “có các sinh viên đảm nhận vấn đề này không?”, ông nói, “nhưng các tổ chức nói chung? Tôi chẳng nghe thấy gì”.
“Có những Giáo xứ và các tổ chức trực tiếp làm việc với những người nhập cư đã lên tiếng; điều này ảnh hưởng đến họ. Nhưng ở các Giáo xứ khác, bạn không nghe thấy bất cứ điều gì”.
Isaac Cuevas, Giám đốc văn phòng phụ trách nhập cư của Tổng Giáo phận Los Angeles, chắc chắn đã nghe những lời phàn nàn này. “Chúng ta là một thành phố vô cùng đa dạng. Những điều mà một linh mục ở Redondo Beach nói sẽ rất khác so với một linh mục ở Đông L.A. hay Huntington Beach”, ông Cuevas cho biết. “Tôi hy vọng rằng mọi linh mục đều hiểu vấn đề này quan trọng như thế nào, tác động của nó đối với cảm giác hạnh phúc của người dân và việc người dân sợ hãi như thế nào” vào giữa tháng Bảy.
Ông lưu ý rằng Tổng Giáo phận đã gửi một lá thư cho tất cả các giáo sĩ của mình trước cuộc bố ráp đối với những người không có giấy tờ bị đe dọa bắt đầu vào ngày 16 tháng 7, giúp họ “hiểu được trách nhiệm của họ với tư cách là các nhà lãnh đạo mục vụ”, do những lời đe dọa được đăng trên tài khoản Tweeter của tổng thống đối với cộng đồng.
Nhập cư là một chủ đề quan trọng đối với Đức Tổng Giám mục Jose Gomez TGP Los Angeles”, Cha Phạm đồng tình, “quý vị có thể nghe ngàinói về điều đó”.
Trong Thánh lễ ngày 20 tháng 7, trên thực tế, Đức TGM Gomez một lần nữa đã cân nhắc về vấn đề này trong bài giảng của mình. Ngài giải thích sau đó tại một cuộc họp báo với truyền thông địa phương: “Ngoài luật pháp, ngoài chính trị, chúng ta có nhiệm vụ chào đón những người xa lạ, mở rộng trái tim và đôi bàn tay của chúng ta để đáp ứng những nhu cầu của họ – những nỗi sợ hãi và sự đói khát của họ. Chúng ta cần đối xử với họ với phẩm giá mà họ có trong tư cách là con cái của Thiên Chúa, bất kể địa vị của họ”. Nhưng liệu Tổng Giáo phận này, nơi có hàng triệu người Công giáo nhập cư, có thể nỗ lực nhiều hơn nữa? Cha Phạm chỉ ra rằng khi các nhà lập pháp ở tiểu bang California đưa ra lời đe dọa vào tháng 6 yêu cầu các linh mục tiết lộ thông tin tiếp nhận được tại Tòa giải tội, “thì sau đó Đức TGM Gomez đã viết một lá thư cho các Giáo xứ được đọc trong Thánh lễ, yêu cầu mọi người liên lạc với các chính trị gia địa phương để phản đối dự luật này, và ngài đã hết sức thành công”. Dự luật đã bị bác bỏ tại cơ quan lập pháp tiểu bang trước khi đi đến vòng bỏ phiếu.
“Nhưng khi nói đến vấn đề nhập cư”, Cha Phạm cho biết, “bạn không nghe những sự nhiệt huyết tương tự. Bạn không có những lá thư viết cho các Giáo xứ thúc đẩy họ liên lạc với các chính trị gia của họ… Tôi chắc chắn nghĩ rằng Giáo hội có thể lên tiếng mạnh mẽ hơn nhiều”.
“Mọi người khó có thể hiểu được khối lượng công việc chúng tôi đang thực hiện đằng sau hậu trường”, ông Cuevas nói. “Với tư cách là một Giáo hội, chúng ta đã không thể làm tốt công việc quảng bá nó. Tôi biết Đức Tổng Giám mục sử dụng diễn đàn của mình theo những cách thức chiến lược mà có lẽ đã không quá công khai”.
Bài học từ quá khứ: Nói niềm tin, thường xuyên nói về nó
Trong công việc của mình với tư cách là một nhà sử học người Mỹ, Linh mục Sean Dempsey, S.J., đã tập trung vào cách thức các tổ chức tôn giáo phục vụ như là những trung gian môi giới xã hội đối với vấn đề nhân quyền. Tình huống mà người dân Hoa Kỳ tự nhận thấy mình ngày hôm nay, ông nói, mang những điểm tương đồng mạnh mẽ với Hoa Kỳ trong quá khứ gần đây. “Nó không phải là một sự tương đồng đúng về mọi chi tiết, nhưng vào cuối những năm 1970 và đầu thập niên 80, quý vị cũng đã có một cuộc khủng hoảng tị nạn toàn cầu”.
Những người nhập cư Đông Nam Á thời kỳ này thường được đáp ứng với sự cởi mở. “Bởi vì nhiều người tị nạn đã ủng hộ động cơ của Hoa Kỳ [ở Việt Nam và Đông Nam Á]”, Linh mục Dempsey nói, “chính quyền của Hoa Kỳ có xu hướng dễ tiếp nhận họ hơn”.
Nhưng những người tị nạn Trung Mỹ, đang chạy trốn khỏi các quốc gia mà chính phủ của họ được chính quyền Reagan hỗ trợ, phải đối mặt với những trở ngại để được tiếp nhận tương tự như những người di cư đương thời, nhiều người trong số họ đang di cư từ cùng một quốc gia. “Chính quyền Reagan cho biết, ‘Chúng tôi ủng hộ chính phủ của quý vị, vì vậy chúng tôi không chấp nhận rằng đất nước của quý vị là một nơi không an toàn”, Linh mục Dempsey nói. “Vì vậy, chúng tôi sẽ không cung cấp cho quý vị tình trạng của những người xin tị nạn. Chúng tôi sẽ nói rằng các bạn sẽ đến vì những lý do về mặt kinh tế và do đó chúng tôi coi các bạn là bất hợp pháp”.
Vào những năm 1980, các tổ chức tôn giáo ở Los Angeles đã phản ứng mạnh mẽ với cuộc khủng hoảng tị nạn khi người dân Trung Mỹ chạy trốn khỏi các quân đội bí mật, tình trạng nghèo đói và cuộc nội chiến. “Các bạn đã có rất nhiều hoạt động tại tòa nhà trung tâm liên bang, mọi người chặn những chiếc xe tải chở những người tị nạn để trục xuất họ, tẩy chay các hãng hàng không đã đưa họ trở lại”, Linh mục Dempsey nói.
Hành động ở cấp cơ sở đó được đi kèm với nỗ lực phối hợp nhằm đưa ra một lập luận về luân lý trên mặt trận quốc gia để tiếp nhận những người dân Trung Mỹ với tư cách là những người tị nạn. “Ở cấp độ tinh thần, Giáo hội đã lập luận rằng đó không phải là vấn đề nếu như một số người nhất định không đủ điều kiện xin tị nạn, họ là những người chạy trốn cảnh chiến tranh và do đó chúng ta có nghĩa vụ về mặt luân lý để giúp đỡ họ”.
“Họ không cực đoan trong suy nghĩ của họ”, Cha Dempsey nói. “Họ không phải là người ủng hộ những hành vi vi phạm luật pháp, nhưng luật đó phải tuân thủ các nguyên tắc phổ quát. Nếu như luật liên bang không công nhận các quyền của người dân, luật đó là sai. Đó chính là tư tưởng của Công giáo khá cổ điển”.
Trọng tâm của hoạt động Công giáo khi đó chính là các Dòng Nữ tu. “Thông thường, chính các Nữ tu làn những người giúp tổ chức những hoạt động phản kháng liên tôn này”, linh mục Dempsey nói. “Chính họ là những người đang làm việc trực tiếp với những người tị nạn, các nhà tạm trú và các Giáo xứ ở nhiều khu phố khác nhau, những người đang xây dựng các mạng lưới này tại thành thị và trên khắp Trung Mỹ”.
Ngày nay, nhiều tổ chức vốn bắt đầu từ những năm 1980, “các nhóm chẳng hạn như ‘Liên minh vì Quyền của những người nhập cư’ ở Los Angeles và ‘Liên minh các Giáo sĩ và Giáo dân dấn thân vì Công lý Kinh tế’, tiếp tục làm những công việc hết sức tuyệt vời”, linh mục Dempsey cho biết thêm. Nhưng nhìn chung, linh mục Dempsey đã nhận thấy những nỗ lực của Giáo hội, “trông có vẻ thiếu máu xanh xao so với những gì họ đã có”.
Những gì có thể thiếu sót, theo Cha Dempsey, đó chính là một tiếng nói luân lý bền bỉ, thẳng thắn, vốn tiêu biểu cho phản ứng trong những năm 1980. “Thay đổi chỉ xảy ra khi vừa có sự tuyên truyền tích cực ở cấp độ cơ sở và áp lực được đặt trên những thành phần ưu tú xã hội cho đến khi họ sát cánh cùng các bạn”, linh mục Dempsey nói. “Chúng ta phải lên tiếng một cách mạnh mẽ rằng những sự việc hiện đang xảy ra ngay lúc này là vô đạo đức. Tất cả các Giáo huấn xã hội của chúng ta đều ủng hộ điều đó, và hầu hết những người di cư cũng đều là người Công giáo. Nó sẽ là một hành động khôn ngoan đối với chúng ta”.
Bill Canny, Giám đốc điều hành Văn phòng Chính sách di cư và các vấn đề công cộng thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, cho biết rằng các giám mục đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng trên nhiều mặt trận. Ví dụ như, ông lưu ý các hành động công khai dọc biên giới, Đức Giám mục Mark Seitz Địa phận Austin, Tex., đã đích thân đưa một gia đình của những người xin tị nạn vào Hoa Kỳ – hoặc những cử chỉ chẳng hạn như quyết định của Đức Giám mục Thomas Wenski Địa phận Miami để gửi các linh mục đến các trại giam để cử hành Thánh lễ. Các Giám mục khác đã hỗ trợ các dịch vụ từ thiện Công giáo địa phương của họ cho những người di cư hoặc gửi thư cho các tín hữu và các đại diện của họ tại Quốc hội về vấn đề này. “Cả hai với tư cách là một tập thể và là một ủy ban về di cư”, ông Canny cho biết, “các giám mục đã trở nên hết sức rõ ràng rằng giới hạn luân lý đã bị chính quyền này vượt qua một cách nhất quán”.
Lập trường của họ về vấn đề này đã trở nên phức tạp bởi sự chia rẽ giữa các tín hữu về vấn đề nhập cư. “Chúng tôi biết được từ các cuộc thăm dò ý kiến rằng khoảng một nửa số người Công giáo sẽ ủng hộ các chính sách nhập cư của Trump”, ông Canny cho biết. “Các Giám mục được trông đợi sẽ thành những vị mục tử đối với toàn bộ đàn chiên của họ. Đức Giám mục Joe Vásquez, người đứng đầu Ủy ban về Dịch vụ di dân và tị nạn trực thuộc HĐGM Hoa Kỳ thường xuyên nhận được những lá thư lên án những lời lẽ động viên của ngài đối với những người nhập cư… Chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lập trường của Giáo hội và đồng thời thuyết phục họ đứng sau phong trào để chống lại thái độ hạn chế nhập cư của chính quyền này”.
Cầu nguyện với đôi chân của chúng ta
Melissa Cedillo là một thành viên của mạng lưới ‘Faith in Public Life’ (Đức tin trong đời sống công cộng), một mạng lưới quốc gia bao gồm các giáo sĩ và các nhà lãnh đạo đức tin, những người ủng hộ vấn đề công bằng xã hội và thiện ích chung. Bà tin rằng các Giám mục Công giáo có thể có tác động đáng kể đến cuộc đối thoại hiện tại xung quanh vấn đề nhập cư nếu họ kết hợp những lời nói của họ với những hành động mang tính chiến lược hơn. “Quả thực hết sức hữu ích khi các giám mục đưa ra các tuyên bố chẳng hạn như chào đón những người nhập cư”, bà Cedillo nói. “Nhưng khi bạn đang suy nghĩ về phương tiện truyền thông và những gì gây được sự chú ý, khi các giám mục làm điều gì đó – đưa một gia đình qua biên giới, cho Rước lễ qua bức tường biên giới – vốn đã gây được sự chú ý”.
Nó cũng cung cấp một sự diễn tả rõ ràng đối với niềm tin Công giáo, bà Cedillo nói. “Khi chúng tôi có 30 Nữ tu và Linh mục Tom Reese bị bắt giữ”, bà Cedillo nói, đồng thời đề cập đến một cuộc biểu tình tại Mái vòm Rotunda, Điện Capitol ở thủ đô Washington vào tháng 2 năm 2018, “Rõ ràng là không phải chúng ta đang cư xử không phải phép: Đây chính là những điều chúng ta muốn, đây chính là những gì chúng tôi chấp nhận. Nó là một giao điểm tuyệt đẹp của đức tin trong hành động; chúng ta đang cầu nguyện với đôi chân và cơ thể của mình”.
Một cuộc biểu tình tương tự với ý định đó đã được tổ chức vào ngày 18 tháng 7 tại Washington nhân “Ngày Hành động Công giáo vì những Trẻ em nhập cư”. Sự kiện này đã thu hút những người biểu tình từ các lĩnh vực như luật sư, dịch vụ và giáo dục Công giáo khác nhau trên cả nước và bao gồm một hoạt động tại Tòa nhà Văn phòng Thượng viện Russell dẫn đến việc bắt giữ 65 người biểu tình.
Gail Gresser là giám đốc phụ trách cơ sở vật chất của trường tại Đại học Mount St. Mary, Los Angeles. “Phần lớn các sinh viên của chúng tôi đến từ các gia đình nhập cư”, bà Gresser nói. “Gần như là tất cả những người bạn nói chuyện đều biết rõ ai đó không có giấy tờ”.
Bà Gresser cũng đã ca ngợi các Giám mục về những tuyên bố chính thức mà họ đã đưa ra về vấn đề nhập cư. “Nhưng tôi mong các giám mục nói chung sẽ làm một điều gì đó gây ấn tượng sâu sắc hơn, rõ ràng hơn”, bà Gresser nói. “Tất cả các giám mục tại một trong những trung tâm giam giữ. Điều đó sẽ truyền tải đi một thông điệp”.
Dylan Corbett, Giám đốc của Viện Hy vọng Biên giới (Hope Border Institute) ở El Paso, Tex., đã nhắc lại “sự thất vọng gần như mang tính toàn cầu với tuyên bố từ … HĐGM Hoa Kỳ lần đầu tiên các vụ trục xuất hàng loạt bị đe dọa”.
“Về vấn đề nhập cư, Giáo hội đang nỗ lực rất nhiều. Giáo hội ủng hộ Capitol Hill. Nó hỗ trợ sự phát triển ở các khu vực chẳng hạn như Trung Mỹ”.
“Tuy nhiên, thời điểm lịch sử này, chúng ta đang sống để kêu gọi một sự ban hành rõ ràng, công khai, ấn tượng hơn về đức tin của chúng ta. Đức tin của chúng ta về cơ bản là một sự biểu hiện. Nó đồng nghĩa với việc phải được biến thành hành động. Nó là một điều gì đó được thể hiện”.
“Tôi nghĩ rằng đó là những gì còn thiếu vắng”, ông Corbett nói, “đó chính là minh chứng rõ ràng cho sự liên đới. Tôi thiết nghĩ mọi người đang tìm kiếm điều đó”.
“Bạn nhìn vào việc ĐTC Phanxicô cung cấp những hình ảnh theo bản năng này”, bà Cedillo nói. “Ngài không nói ‘Hãy thăm viếng những người bị tù đày”, thế nhưng Ngài đích thân đến đó và rửa chân cho họ. Ngài đã đến nơi xảy ra cuộc khủng hoảng tị nạn và nói với họ, ‘Thiên Chúa yêu thương anh chị em’. Ngài không bị lạc hướng trong các thần học thuyết phức tạp về những gì chúng ta làm, về việc câu trả lời là gì. Ngài nói, ‘Tôi sẽ chỉ cho bạn thấy’”.
“Liệu có phải những gì chúng ta làm là đã đủ?”, ông Canny nói. “Đó chính là một câu hỏi mà chúng ta cần phải liên tục suy nghĩ. Tôi tự hỏi mình điều đó. Tôi là một người đàn ông của gia đình, tôi có con cái, nhưng dù sao, tôi có nên ra khỏi đây để bị bắt không?”.
“Tôi đã không gặp vấn đề gì với những người muốn các Giám mục phải nỗ lực nhiều hơn nữa”, ông Canny nói. “Nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta phải hết sức cẩn thận với tư cách là giáo dân khi chúng ta tự hỏi mình những câu hỏi tương tự. Đây là những câu hỏi thẳng thắn đối với tất cả chúng ta”.
Những người Công giáo làm việc với những người không có giấy tờ cho thấy có nhiều cách thức để giúp cho lời nói và hành động của họ đi đôi với nhau trong thời điểm này. Louise Martinez (không phải danh tính thật) điều hành một trong số ít các tổ chức Công giáo ở Los Angeles vốn cung cấp chỗ trú ẩn cho những người không có giấy tờ.
Nơi trú ẩn của chị đã chọn giữ im lặng; bởi vì đó là một trong những nơi duy nhất mà những người không có giấy tờ có thể đi, nỗi sợ hãi đối với hành động của chính phủ nhằm vào những nơi trú ẩn hoặc người dân ở đó là vô cùng cao. Nhưng, “nếu như Tổng Giáo phận tự tuyên bố mình là một nơi trú ẩn, [bao gồm] tất cả các nhà thờ trong TGP”, chị Martinez đề nghị, mọi thứ có thể khác với chương trình của chị. “Không ai có thể nhắm mục tiêu vào một vị trí cụ thể”.
Bà Cedillo đồng ý: “Khi mà một cuộc đột kích được công bố vào hôm Chúa nhật, tất cả mọi nhà thờ cần phải đồng thanh lên tiếng rằng, ‘Nếu như anh chị em muốn, chúng tôi sẽ mở cửa chào đón anh chị em’”.
Guadalupe Pacheco đề nghị việc gây quỹ cho Tổng Giáo phận như một phương tiện khác nhằm thu hút sự chú ý và thể hiện ý định của mình. “Giáo hội tại Los Angeles có một trung tâm nhập cư tuyệt vời, Dự án Quyền Nhập cư Esperanza. Nhưng nó đã bị thiếu hụt ngân quỹ”, chị chia sẻ.
Thậm chí ngay cả khi chỉ xuất hiện tại các sự kiện liên tôn – hay không – thì nó có thể biểu lộ một cách hùng hồn và đầy ý nghĩa, bà Cedillo nói. “Tại Washington, D.C., bất cứ khi nào có các buổi cầu nguyện cho những người di cư hay các cuộc biểu tình, tôi không phải lo lắng về việc các anh chị em Do Thái xuất hiện”, bà Cedillo nói. “Nếu tôi muốn có một giáo sĩ nói chuyện, thì việc mời họ quả là không khó”. Thế nhưng, có rất nhiều giáo sĩ nói, ‘Tôi sẵn lòng, nhưng có lẽ không nên như vậy’”.
“Chúng tôi gọi cho các chị em Nữ tu và họ nói, ‘Quý vị cần bao nhiêu người trong số chúng tôi’”, bà Cedillo nói. “Tôi đã rất ngạc nhiên hết lần này đến lần khác. Họ ở ngoài đó mỗi ngày; họ biết các chính sách, họ biết ai bầu chọn điều gì”. Khi nói đến những điều mà Giáo hội cần phải làm, bà Cedillo khuyên, “Hãy theo dõi các chị em Nữ tu, hãy lắng nghe họ”.
Việc tìm kiếm nơi trú ẩn
Trước những tiết lộ liên tục về các chuyến xe buýt tại các trung tâm giam giữ những người di cư, một số người Công giáo tin rằng việc cung cấp nơi trú ẩn hco họ đã trở thành một sự đòi buộc về mặt luân lý. “Tôi chắc chắn nghĩ rằng chúng ta nên làm điều đó”, cha Phạm nói. “Khi nói đến phẩm giá của con người, hay sự sống của con người – đây chính là những câu hỏi về đức tin, về con người chúng ta. Chúng tôi có thể phân định, nhưng nó không phải là một sự phân biệt về phía chúng ta. Đó chính là một sự phân biệt về cách thức chúng ta sẽ tiến về phía trước. Nếu như chúng ta thực sự là người Công giáo và là người Kitô hữu, những gì chúng ta phải làm là hết sức rõ ràng”.
“Chúng ta phải nhận thức được những kết quả chính thức”, cha Phạm cho biết thêm, và đồng thời lưu ý rằng nơi trú ẩn không thể là quyết định của một mục tử: “Tất cả mọi người trong Giáo xứ đều có liên quan”.
Những người khác ủng hộ ý tưởng về nơi trú ẩn thừa nhận những thách thức thực tế của nó. “Hãy nhìn vào việc các tín đồ hệ phái Tin lành Mennonite tiếp đón chị Edith Espinal ở Ohio – chị đã sống ở đó hơn một năm. Chị không chỉ cần một chiếc giường mà còn cần thức ăn và sự giúp đỡ cho những đứa con của chị”.
Và một số lo lắng về hậu quả đối với sứ vụ của họ. “Đối với chúng tôi tại Đại học Mount St. Mary, chúng tôi đã phục vụ rất nhiều người đang gặp khó khăn về mặt kinh tế và phải đối mặt với những thách thức kinh tế của chính họ”, bà Gresser nói. “Việc tự tuyên bố mình là một nơi trú ẩn và vi phạm pháp luật, điều đó có thể sẽ gây tổn hại cho tổ chức của chúng ta”.
Nhưng bà Gresser tự hỏi việc liệu cuộc tranh luận về nơi trú ẩn đôi khi có bỏ lỡ mục tiêu. “Chúng ta muốn nói gì về nơi trú ẩn?”. “Tại Đại học Mount St. Mary và hầu hết các tổ chức Công giáo, chúng tôi sẽ không hợp tác với ICE hoặc cơ quan thực thi pháp luật, những người muốn nhận ra bạn mà không có chỉ thị rõ ràng của tòa án bắt buộc chúng ta phải làm điều này”.
Về phần mình, bà Pacheco đặt câu hỏi đối với toàn bộ ý tưởng xây dựng nơi trú ẩn gần như là các nhà thờ. “Nếu như chúng ta nghĩ về nơi trú ẩn chỉ như là một địa điểm nào đó, chúng ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội tuyệt vời để trở thành những Kitô hữu sống động. Nhà của tôi là một nơi trú ẩn. Nhà của các bạn, công việc của các bạn, xe cộ của các bạn cũng vậy. Mỗi chúng ta được mời gọi trở thành nơi trú ngụ của Thiên Chúa.
“Đừng xem tôi như một người nhập cư không có giấy tờ chạy đến một nhà thờ. Xin hãy xem tôi như một người than cận, hãy mở cửa và để tôi ở đó”.
Ông Cuevas đồng tình. “Giáo hội không phải là một thực thể trên một ngọn đồi hoặc trong một tòa lâu đài trắng vốn có thể đưa ra một tuyên bố và mọi thứ sẽ tự động xảy ra. Bất cứ ai cảm thấy giống như Giáo hội nên làm một điều gì đó, đó chính là Giáo hội. Thay vì đòi hỏi một điều gì đó từ vị mục tử của họ, tôi ước họ sẽ tham gia nhiều hơn”.
Ông cũng lưu ý rằng bên cạnh hành động, việc cải cách nhập cư là điều hết sức cần thiết. “Vấn đề nhập cư đã trở nên điều mà chúng ta có thể trì hoãn trong nhiều năm. Vẫn có thể thông qua một gói cải cách nhập cư toàn diện, một mục tiêu được các giám mục Hoa Kỳ ủng hộ từ lâu, ông Cuevas nói. “Đây không phải là vấn đề của đảng Dân chủ hay Cộng hòa. Cả hai bên phải gặp nhau ở giữa”.
Ngày nay một số người có thể nghĩ Los Angeles như là một trong những thành phố an toàn hơn của Hoa Kỳ để trở thành một người nhập cư không có giấy tờ. Nhưng điều đó không đúng với những người mà chị Martinez đã phục vụ. “Cần phải mất một khoảng thời gian dài để thành phố tự tuyên bố mình là một nơi trú ẩn”, chị Martinez nói. “Và cảnh sát cho biết rằng họ sẽ không hợp tác với ICE, nhưng chúng tôi đã nghe nói rằng trong quá khứ, và sau đó chúng tôi có những người dân tại những trú ẩn nói với chúng tôi rằng họ đã bị cảnh sát giam giữ”.
“Nỗi sợ hãi luôn luôn hiện hữu ở đó”.
“Tôi đã cầu nguyện trong hai năm qua như tôi đã từng như vậy”, bà Pacheco nói, “và tôi hối tiếc vì điều đó. Không phải Thiên Chúa; mà chính con người làm cho điều này trở nên khó khăn. Thế nhưng cảm giác của việc không thuộc về này, nó khiến tôi nghi ngờ về sự hiểu biết của mình về cách tôi có thể thuộc về Thiên Chúa”.
Thế nhưng bà cũng đã có được một cảm giác bất ngờ về sứ mạng từ hoàn cảnh của mình. Bà lưu ý về trình thuật Tin Mừng Chúa Nhật ngày 14 tháng 7, Dụ ngôn về người Samari nhân hậu: “Chúng ta có thể dành thời gian chỉ trích vị Thượng tế đã không dừng lại … và chúng ta quên mất long bao dung nhân hậu vốn tạo nên sự khác biệt. Thời gian và thời điểm này chính là một cơ hội tuyệt vời để lựa chọn: Bạn muốn trở thành nhân vật nào?”.
“Việc trở thành một người không có giấy tờ”, bà Pacheco nói, “cũng chính là một phước lành. Nó khiến cho bạn có được sự đồng cảm. Tôi cảm thấy như người mù được Chúa Giêsu chạm vào. Ngài ban cho bạn một nhãn lực mới”.
Bài viết này cũng sẽ xuất hiện dưới dạng báo in, dưới tiêu đề “Liệu Giáo hội có thể nỗ lực nhiều hơn nữa để bảo vệ những người không có giấy tờ?” trong số ra ngày 5 tháng 8 năm 2019.
Minh Tuệ (theo Amerrica)