
Những người nhập cư đi bộ về phía một trạm kiểm soát Biên giới của Hoa Kỳ sau khi họ vượt qua Rio Grande từ Mexico vào ngày 14 tháng 8 năm 2021 tại Roma, Texas (Ảnh: John Moore / AFP / Getty)
Các điều kiện tại biên giới phía nam của Hoa Kỳ đã trở nên căng thẳng nghiêm trọng trong những tuần lễ gần đây, khi dòng người nhập cư tiến vào đất nước này đồng thời cùng với một đợt bùng phát COVID-19 mới ở miền nam Texas.
Sự tiến triển mới nhất này đã làm gia tăng sự căng thẳng khả năng của Giáo hội địa phương trong việc phục vụ những người di cư khốn khó – đồng thời cũng cho thấy, một lần nữa, sự đổ vỡ có hệ thống của chính sách nhập cư của Hoa Kỳ.
Bất chấp những hoàn cảnh khó khăn, Đức Giám mục Daniel Flores cho biết lời kêu gọi của Giáo hội Công giáo đó là phục vụ những người dễ bị tổn thương vượt sông Rio Grande vào Giáo phận của mình vẫn giữ nguyên như thế – ngay cả khi nó cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với những ràng buộc về luật pháp và sức khỏe cộng đồng hiện tại.
“Trách nhiệm đầu tiên của chúng ta là đối phó với những người đang ở ngay trước mặt chúng ta”, Đức Giám mục Flores, vị Mục tử của Giáo phận Brownsville, phát biểu với tờ Register. “Chúng ta không thể giả vờ như những người nhập cư này không có ở đây”.
‘Ground Zero’ đối với những người nhập cư
Thung lũng Rio Grande – mũi phía nam của Texas – là vùng đất số không (Ground Zero) đối với sự gia tăng chủ yếu là những người nhập cư Trung Mỹ, những người đã vượt biên với số lượng chưa từng có trong những tháng gần đây. Chỉ tính riêng trong tháng 7, các Cơ quan Bảo vệ Biên giới và Hải quan Hoa Kỳ đã bắt gặp khoảng 210.000 người di cư dọc theo biên giới phía nam, con số lớn nhất chỉ trong một tháng trong vòng 20 năm qua và cao hơn mức cao nhất của năm ngoái hơn 70.000 người.
Được thúc đẩy bởi các điều kiện kinh tế và an ninh tồi tệ ở quê nhà, cũng như việc chính quyền Biden từ bỏ các chính sách răn đe và thực thi thời Trump, làn sóng người di cư từ các quốc gia như Honduras và Guatemala đang tiếp tục tăng cao ngay cả trong những tháng nóng bức nhất của năm, một dấu hiệu cho thấy hoạt động này mạnh mẽ bất thường.
Nghèo khổ, mệt mỏi và thường không biết làm thế nào để tiếp cận các thành viên gia đình ở các vùng khác của Hoa Kỳ, những người nhập cư vào miền nam Texas nhận được sự che chở và hỗ trợ từ những người Công giáo địa phương. Trung tâm Phục vụ Nhân đạo, do Tổ chức Từ thiện Công giáo ở Thung lũng Rio Grande điều hành, là hoạt động tông đồ chính của Giáo phận Brownville cho cộng đồng di cư.
Trái ngược với một số báo cáo gần đây của phương tiện truyền thông, hầu hết những người được phục vụ tại trung tâm đã được chính phủ cho phép ở lại trong nước. Hầu hết những người nhập cư bị giam giữ tại biên giới được đưa trở lại do Chuẩn luật số 42 (Title 42), một biện pháp được thực hiện bởi Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh trong nhiệm kỳ của Trump nhằm giảm thiểu sự lây lan của COVID-19. Tuy nhiên, các trường hợp ngoại lệ được đưa ra đối với các gia đình có trẻ nhỏ – mà Mexico đã từ chối tiếp nhận trở lại – và các gia đình xin tị nạn vì bạo lực tại quê hương của họ. Họ được phép ở lại Hoa Kỳ cho đến khi yêu cầu tị nạn của họ có thể được giải quyết. Sau khi được Cơ quan Tuần tra Biên giới giải quyết, những gia đình này được trả tự do khỏi sự quản thúc của liên bang và được đưa về trung tâm từ thiện Công giáo, nằm ở McAllen, một thành phố biên giới của Texas với 150.000 dân.
Trung tâm có thể cung cấp nơi trú ẩn qua đêm cho 1.200 phụ nữ và trẻ em, và thường thấy ít nhất 800 người vào mỗi đêm. Đội ngũ nhân viên và tình nguyện viên giúp chuẩn bị cho các gia đình trong các chuyến đi của họ với người thân, cung cấp thực phẩm, đồ dùng cho trẻ sơ sinh và thậm chí là đưa đón đến bến xe buýt địa phương.
Năng lực tại Trung tâm Nghỉ dưỡng trong thời kỳ di cư đang ngày càng trở nên căng thẳng. Khi trung tâm thiếu khả năng cung cấp giường cho bất kỳ người di cư nào nữa, các nhà thờ địa phương bắt đầu bắt tay vào công việc, chẳng hạn như Nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe ở Mission, Texas, nơi có thể chứa 300 người.
Các tổ chức từ thiện Công giáo đang tìm cách mở rộng các cơ sở của họ để đáp ứng những con số mà họ đang chứng kiến, Nữ tu Norma Pimentel, Giám đốc điều hành, cho biết.
“Mối bận tâm của tôi là các gia đình”, Nữ Norma, một thành viên của Hội Thừa Sai Chúa Giêsu, phát biểu với một đài tin tức địa phương. “Họ là nạn nhân trong tất cả những điều này”.
Phục vụ trong một Đại dịch
Đã đến mức giới hạn mà họ có thể phục vụ, Tổ chức từ thiện Công giáo đã phải đối mặt với những thách thức bổ sung trong những tuần lễ gần đây khi COVID-19 đã gia tăng đột biến ở miền nam Texas, với tỷ lệ nhập viện đạt mức cao nhất trước đó.
Hợp tác với thành phố McAllen, Tổ chức từ thiện Công giáo Thung lũng Rio Grande xét nghiệm tất cả những người nhập cư được trả tự do khỏi nơi giam giữ. Theo Sơ Norma, tỷ lệ lây nhiễm ở những người di cư đã tăng gấp đôi, hiện gần 10%. Các nhân viên Tuần tra Biên giới liên quan cũng đang được xét nghiệm dương tính ở mức báo động.
Những người nhập cư bị nhiễm bệnh được cách ly trong các khách sạn địa phương, được các Tổ chức từ thiện Công giáo cho thuê. Các bác sĩ và y tá tình nguyện chăm sóc sức khỏe của họ, thức ăn và các tiện nghi khác được cung cấp. Các khách sạn được các tổ chức từ thiện cho thuê của Công giáo chứa khoảng 1.000 người nhập cư bị nhiễm bệnh mỗi đêm vào thời điểm cao điểm của đợt bùng phát COVID mới nhất.
Tuy nhiên, phương pháp này đã bị giám sát toàn quốc vào cuối tháng 7 khi một gia đình bị nhiễm COVID-19 rời khách sạn của họ ở La Joya, Texas và đến một nhà hàng Whataburger địa phương. Sơ Norma cho biết trường hợp này là một “trường hợp cá biệt” và các biện pháp đã được thực hiện để đảm bảo rằng những người di cư bị cách ly vẫn ở trong khách sạn của họ, nhưng Tổ chức từ thiện Công giáo cũng đã nhận được một số chỉ trích từ cộng đồng địa phương vì không thông báo cho chính quyền rằng những người nhập cư bị nhiễm bệnh đang được cách ly trong thị trấn của họ.
Trước sự việc và với lý do ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, Thống đốc bang Texas Greg Abbot đã ban hành một sắc lệnh hành pháp vào cuối tháng 7 cấm bất kỳ ai trừ cơ quan thực thi pháp luật vận chuyển người nhập cư. Động thái này đã cản trở khả năng của Tổ chức từ thiện Công giáo trong việc giúp những người di cư hợp pháp và không bị nhiêmc COVID-19 tiếp cận đại gia đình của họ, nhưng nó cũng cản trở khả năng của tổ chức phi lợi nhuận trong việc đưa những người nhập cư bị nhiễm bệnh đến các địa điểm an toàn để cách ly.
“Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là tiếp tục phục vụ trong những ràng buộc của luật pháp”, Đức Giám mục Flores nói.
Vào ngày 3 tháng 8, sắc lệnh hành pháp của Thống đốc Abbot đã bị thẩm phán liên bang tạm thời ngăn chặn sau khi Bộ Tư pháp Hoa Kỳ lập luận rằng động thái của ông đã vi phạm chính sách nhập cư quốc gia, vốn thuộc thẩm quyền của chính phủ liên bang. Thời gian lưu trú đã được gia hạn thêm hai tuần vào ngày 13 tháng 8.
Chính sách thất bại
Có thể có những quan điểm khác nhau ở Texas về những cách thức tốt nhất để phục vụ những người nhập cư đồng thời bảo vệ sức khỏe của cộng đồng rộng lớn hơn, nhưng có rất ít ý kiến bất đồng rằng các chính sách nhập cư liên bang thất bại đã tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay, điều mà chính quyền Biden đã không giải quyết được.
Hệ thống nhập cư của Mỹ đã bị phá vỡ trước khi Joe Biden trở thành tổng thống, nhưng nhiều người cho biết rằng ông ấy đã làm trầm trọng thêm những sai sót – có lẽ ngay cả trước khi ông ấy nhậm chức. Một phần do chính sách nới lỏng mà ông đã hứa hẹn trong cuộc vận động tranh cử, một phần do đơn giản không phải là Trump nổi tiếng là người cứng rắn về nhập cư, một số người nói rằng Biden thúc đẩy nhận thức rằng biên giới sẽ rộng mở nếu ông nhậm chức, về cơ bản đưa ra lời hứa hão huyền rằng những người nhập cư từ các nước Trung Mỹ suy thoái kinh tế và bạo lực sẽ được chào đón vào Mỹ với vòng tay rộng mở.
Với làn sóng nhập cư đang diễn ra, Phó Tổng thống Kamala Harris nổi tiếng đã đến Guatemala vào tháng 6 để nói với những người di cư “đừng đến” – nhưng hàng trăm nghìn thành viên trong các cử tọa dự định của bà đã làm như vậy.
Các nhà phê bình cũng chỉ ra những thay đổi mà chính quyền Biden đã thực hiện đối với quy trình tiếp nhận những người xin tị nạn. Biden không chỉ hủy bỏ chương trình “Ở lại Mexico” của Trump, trong đó yêu cầu các trường hợp của những người xin tị nạn phải được quyết định tại tòa án Hoa Kỳ trước khi được phép nhập cảnh vào nước này, mà chính quyền còn yêu cầu các nhân viên Tuần tra Biên giới cắt giảm lượng giấy tờ cần thiết để đưa một người di cư xin tị nạn vào hệ thống tòa án di trú.
Một báo cáo của tờ New York Times gợi ý rằng sự thay đổi đã cho phép 15.000 người nhập cư bỏ lỡ khung thời gian mà họ được yêu cầu làm thủ tục với chính quyền liên bang tại thành phố mà họ chuyển đến, trong đó các quan chức thực thi di trú không thể theo dõi nơi ở của họ.
Gần đây, những lời chỉ trích về cách xử lý cuộc khủng hoảng biên giới của Biden đã xuất phát từ cả hai phía. Vào ngày 30 tháng 7, Hạ nghị sĩ Henry Cuellar, D-Texas, một người Công giáo đại diện cho khu vực quốc hội thứ 28 của Texas, đã cùng với Thượng nghị sĩ Lindsey Graham, RS.C., đưa ra một bài phê bình lưỡng đảng về sự thất bại của chính quyền Biden trong việc ngăn chặn số lượng người nhập cư không thể quản lý được nhập cảnh vào nước này.
Hai nghị sĩ đã kêu gọi chính quyền giao nhiệm vụ cho ông Jeh Johnson, Bộ trưởng An ninh Nội địa Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Barack Obama, thực hiện các thay đổi về chính sách và thực thi. Hạ nghị sĩ Cuellar đã mô tả ông Johnson là một người vừa “từ bi” nhưng cũng vừa “tuân theo luật pháp” và “làm những gì phải làm”.
Các quan chức ở những nơi như McAllen đã được phép tuyên bố thiên tai địa phương, và đồng thời kêu gọi chính phủ liên bang và tiểu bang hỗ trợ cứu trợ. Một thành phố biên giới của Texas, Laredo, đã kiện chính quyền Biden trong nỗ lực ngăn chính phủ đưa các đoàn xe buýt của người nhập cư đến thành phố để xử lý, điều mà thị trưởng Laredo cho rằng đã lấn át cơ sở hạ tầng và nguồn lực của địa phương và khiến người dân gia tăng nguy cơ lây nhiễm COVID-19 .
Đức Giám mục Flores, cùng với các anh em Giám mục tại Hoa Kỳ, từ lâu đã kêu gọi cải cách lưỡng đảng đối với luật nhập cư Hoa Kỳ, và đồng thời nêu rõ Giáo huấn Xã hội của Giáo hội về vấn đề nhập cư và việc áp dụng nó vào Hoa Kỳ trong các tài liệu như tuyên bố mục vụ như Tài liệu năm 2003 của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ “Không ai là Người xa lạ”.
Đức Giám mục Flores cho biết rằng các nhà hoạch định chính sách liên quan đến vấn đề cải cách nhập cư cũng cần xem xét cách thức Hoa Kỳ có thể giải quyết một số nguyên nhân gốc rễ của vấn đề nhập cư từ Mỹ Latinh, chẳng hạn như chiến tranh và bất ổn kinh tế, vì quyền được ở lại quê hương của một người mà không phải lo sợ bạo lực hoặc nghèo đói là một quyền cơ bản. Đức Giám mục Flores cũng cho biết thêm rằng mặc dù một quốc gia có quyền điều chỉnh vấn đề nhập cư, nhưng những luật mà quốc gia đó thông qua cần phải giải quyết “thực tại của con người” – điều mà ngài tin rằng luật nhập cư của Hoa Kỳ thường không làm được.
“Sẽ không phải là một câu trả lời khi nói rằng luật là luật và chỉ cần thực thi”, Đức Giám mục Flores nói về luật nhập cư. “Luật pháp là vì lợi ích của con người, chứ không phải ngược lại”.
Trong khi Đức Giám mục Flores ủng hộ việc cải cách nhập cư toàn diện, ngài cũng lo ngại rằng việc giải quyết vấn đề nhập cư chỉ qua lăng kính chính trị có thể làm sai lệch thực tế của con người. Với tư cách là một cơ quan gồm nhiều bộ phận, Đức Giám mục Flores tin rằng Giáo hội có thể vận động cho một hệ thống nhập cư công bằng và hiệu quả hơn, đồng thời đáp ứng nhu cầu của những người di cư.
Đức Giám mục Flores, có lẽ là nhà thần học hàng đầu về tư tưởng của Thánh Tôma Aquinô trong số các Giám mục Hoa Kỳ và là người đứng đầu hiện tại của Ủy ban Giáo lý của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, cho biết khía cạnh cốt lõi trong Giáo huấn xã hội của Giáo hội liên quan đến việc chăm sóc người di cư xuất phát từ Dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu của Chúa Giêsu, mà Ngài đã kể để trả lời cho câu hỏi: “Ai là người lân cận của tôi?”. Vị Giám chức giải thích rằng Chúa Giêsu kể dụ ngôn để minh họa rằng địa vị của một người di cư với tư cách là một con người, được tạo dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, cần phải được ưu tiên hơn những thứ như sắc tộc hoặc quốc gia xuất xứ của một người.
“’Bạn có đói không?’ là câu hỏi đầu tiên, chứ không phải là ‘bạn đến từ đâu?’”, Đức Giám mục Flores nói, ghi nhận lòng biết ơn của mình đối với vô số tình nguyện viên, giáo dân và chủ doanh nghiệp địa phương, những người đóng góp vào nỗ lực của Giáo phận Brownsville để cung cấp dịch vụ chăm sóc nhân đạo cho cộng đồng nhập cư.
Đức Giám mục Flores cũng cho biết rằng mặc dù một số người xin tị nạn mà Tổ chức từ thiện Công giáo ở Thung lũng Rio Grande phục vụ và thậm chí giúp di chuyển đến các khu vực khác của đất nước có thể không bao giờ báo cáo với các dịch vụ nhập cư và tránh bị phát hiện, nhưng cuối cùng đó là trách nhiệm của chính phủ trong việc tuân thủ việc thực thi luật pháp của chính mình.
Đức Giám mục Flores cũng bác bỏ những lời chỉ trích gần đây là “hoàn toàn không công bằng” rằng sự hợp tác của Giáo hội Công giáo với chính phủ liên bang trong việc chăm sóc người di cư đã được thúc đẩy bởi “động cơ lợi nhuận”, như đã được tuyên bố trong một phần gần đây của chương trình truyền hình Fox và Những người bạn. Mặc dù Giáo hội có thể nhận được khoản bồi thường tài chính cho việc cung cấp các dịch vụ nhân đạo mà chính phủ thường không có khả năng cung cấp, động cơ chính của Giáo hội là trung thành với Tin Mừng, chứ không phải lợi nhuận.
“Nếu họ định chỉ trích việc chúng tôi giúp đỡ mọi người mà không yêu cầu họ cung cấp tài liệu giấy tờ”, Đức Giám mục Flores nói. “Tôi thực sự cảm thấy an ủi vì điều đó về cơ bản là điều mà Giáo hội hiểu rằng Chúa Giêsu cũng sẽ yêu cầu chúng tôi làm”.
Minh Tuệ (theo NCR)