Giáo hội Công giáo vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ tại Châu Phi trong khi suy thoái tại Châu Âu

Hồng y John Njue của Nairobi, Kenya, phân phát Rước lễ đến các máy chủ bàn thờ, hầu hết đeo mặt nạ bảo vệ, trong Thánh lễ Thứ Tư Lễ Tro tại Vương cung thánh đường Thánh Gia ở Nairobi ngày 17 tháng 2 năm 2021. (Nguồn: Thomas Mukoya / Reuters qua CNS)

Đức Hồng y John Njue Địa phận Nairobi, Kenya, cho các em lễ sinh Rước lễ, hầu hết đều đeo khẩu trang, trong Thánh lễ Thứ Tư Lễ Tro tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Gia ở Nairobi, ngày 17 tháng 2 năm 2021 (Ảnh: Thomas Mukoya / Reuters qua CNS)

Theo thống kê gần đây, châu Phi có thêm hơn 8 triệu người Công giáo vào năm 2019, là khu vực tăng trưởng lớn nhất trên thế giới.

Trong khi đó, châu Mỹ có thêm 5,3 triệu, châu Á có thêm 1,9 triệu và châu Đại Dương có thêm 118.000 người Công giáo. Mặt khác, châu Âu đã chứng kiến sự sụt giảm gần 300.000 người Công giáo.

Bà Kinga von Poschinger, người làm việc tại Tổ chức từ thiện Giáo hoàng mang tên Viện trợ các Giáo hội Đau khổ (ACN), cho biết có nhiều lý do cho sự phát triển của Giáo hội ở Châu Phi.

“Thực tế là sự gia tăng đức tin ở châu Phi chỉ tăng trong những thập kỷ gần đây có thể được giải thích một mặt là do thực tế rằng đức tin Kitô giáo hiện chỉ mới xuất hiện ở nhiều khu vực – vẫn còn nhiều khu vực nơi các tôn giáo truyền thống của châu Phi được thực hành – và mặt khác, bởi thực tế là việc truyền bá Phúc Âm hóa ngày nay không còn nhắm vào việc rửa tội hàng loạt và do đó là những cuộc trở lại đạo hàng loạt, mà nhắm vào cuộc gặp gỡ thực sự và đích thực với Thiên Chúa phát xuất từ phần sâu thẳm nhất của con người. Và chính cuộc gặp gỡ thực sự này với Thiên Chúa đã làm cho người ta được soi sáng và trở nên ánh sáng cho thế giới”, bà Poschinger phát biểu với Crux.

Sau đây là trích đoạn cuộc trò chuyện của bà Kinga von Poschinger với Crux.

Crux: Điều gì giải thích thực tế rằng Giáo hội tại Châu Phi đang tăng trưởng như vậy?

Trong toàn bộ lịch sử của nhân loại, không có một xã hội nào, không một nền văn hóa nào lại không phấn đấu (và, một cách ngẫu nhiên, vẫn tiếp tục phấn đấu) để đạt tới cái “cao hơn” hoặc hoàn hảo hơn. Tuy nhiên, đồng thời, sự hoàn hảo này không tồn tại trong thế giới của chúng ta: Chẳng có ai là hoàn hảo, không có loài động vật, thực vật nào, thậm chí cả những thứ vô tri vô giác là hoàn hảo. Sự phấn đấu hướng đến sự hoàn hảo, vốn đã tồn tại từ thuở sơ khai trong lịch sử loài người, do đó chỉ có thể có nghĩa là sự hoàn hảo đó, nghĩa là “cái cao hơn” tồn tại (ví dụ, bằng phép loại suy, sẽ hoàn toàn phi logic nếu người ta cảm thấy khát nếu không có thứ chất lỏng nào trên thế giới làm dịu cơn khát của họ).

Vì vậy, đối với hầu hết các nền văn hóa, hoàn toàn hợp lý rằng điều cao cả hơn này, “sự hoàn hảo” này chính là Thiên Chúa. Trong thế giới phương Tây của chúng ta cũng vậy, sự phấn đấu hướng đến sự hoàn hảo, hướng đến cái cao hơn, hướng đến cái vô hạn, vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, trong quá trình phấn đấu này, chúng ta ngày càng dựa nhiều hơn vào khoa học và công nghệ: Chính khoa học và công nghệ nano sẽ chữa lành cho chúng ta, ngăn chúng ta khỏi đau khổ; sẽ kéo dài tuổi thọ của chúng ta.

 Ở lục địa Châu Phi, trình độ công nghệ cao này không tồn tại. Hơn cả công nghệ, con người ở đó phụ thuộc vào thiên nhiên và con người trong cuộc sống hàng ngày của họ. Cơ bản là thiên nhiên cung cấp thức ăn cho họ – chứ không phải siêu thị, và chính con người là người chăm sóc họ khi họ già yếu, bệnh tật hay đau khổ – chứ không phải một cỗ máy.

Giống như mọi nơi khác trên thế giới, người dân ở châu Phi tự nhiên cầu xin một “dấu chỉ của Thiên Chúa”, trong cuộc sống của họ, để có câu trả lời cho những vấn đề của họ – đặc biệt là khi đối mặt với quá nhiều sự đói kém và đau khổ. Nhưng đồng thời, họ cũng cởi mở hơn rất nhiều khi nhận ra những dấu chỉ như vậy trong cuộc sống hàng ngày của họ. Nói cách khác, họ tham gia vào những trải nghiệm tâm linh và nhận thấy trong đó bằng chứng về sự tồn tại của Thiên Chúa. Càng có nhiều kinh nghiệm tâm linh chân thực như vậy, và họ càng tin tưởng một cách sâu sắc vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, thái độ của họ đối với cuộc sống càng thay đổi. Điều này sau đó không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống riêng tư của họ mà còn thuyết phục những người khác về sự tồn tại của Thiên Chúa – thường không cần nhiều lời.

Thực tế là sự gia tăng đức tin ở châu Phi chỉ tăng trong những thập kỷ gần đây có thể được giải thích một mặt là do thực tế rằng đức tin Kitô giáo hiện chỉ mới xuất hiện ở nhiều khu vực – vẫn còn nhiều khu vực nơi các tôn giáo truyền thống của châu Phi được thực hành – và mặt khác, bởi thực tế là việc truyền bá Phúc Âm hóa ngày nay không còn nhắm vào việc rửa tội hàng loạt và do đó là những cuộc trở lại đạo hàng loạt, mà nhắm vào cuộc gặp gỡ thực sự và đích thực với Thiên Chúa phát xuất từ phần sâu thẳm nhất của con người. Và chính cuộc gặp gỡ thực sự này với Thiên Chúa đã làm cho người ta được soi sáng và trở nên ánh sáng cho thế giới.

Tại sao bà cho rằng dân số Công giáo ở Châu Âu đang suy giảm?

Trong tiến trình lịch sử, tôn giáo Kitô giáo (và do đó cũng là Công giáo) đã trở nên mang tính duy vật hơn nhiều so với lúc ban đầu. Thông thường, một người Công giáo tốt lành thánh thiện được đánh giá trước hết qua số lượng những công việc từ thiện bác ái mà anh ta đã làm và những điều tốt đẹp anh ta đã thực hiện trong cuộc đời của mình. Nhưng có hàng nghìn tổ chức ở Châu Âu, qua đó bạn có thể làm được nhiều công việc rất tốt đẹp và bạn không cần phải là một người Công giáo. Đó là một lý do.

Một lý do khác là tính duy nhất trong đức tin của chúng ta, cụ thể là ý thức rằng Thiên Chúa hiện diện trong chúng ta – (“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” Ga 15: 4) – đã bị mất đi phần nào trong Giáo huấn của những thập kỷ trước, thậm chí có thể là hàng thế kỷ. Việc Thiên Chúa hiện diện trong chúng ta là một tuyên bố mang tính cách mạng. Vì cuối cùng nó nói rằng mỗi con người đều có một điều gì đó thiêng liêng bên trong mình. (Điều này ngẫu nhiên giải thích lý do tại sao mọi người đều nỗ lực phấn đấu hướng đến sự thiêng liêng, hướng đến sự tuyệt đối, hướng đến sự hoàn hảo – và cũng cần phải phấn đấu, như đã đề cập ở phần đầu).

Vì vậy, mục tiêu cuộc đời của chúng ta chỉ đơn giản là nhận ra điều thiêng liêng trong chúng ta, để sau đó làm theo thánh ý của Ngài. Hay nói theo lời của Thánh Têrêsa thành Lisieux: “Thiên Chúa không đòi hỏi nơi chúng ta những việc làm lớn lao, mà chỉ đòi hỏi sự chân thành và lòng biết ơn. Ngài không cần những công trạng của chúng ta, mà chỉ cần lòng yêu mến của chúng ta”. Nhưng điều này khó hơn nhiều so với việc làm những việc lành phúc đức. Những việc lành phúc đức thì có thể đo lường được, những tình yêu thì không. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ phải đối mặt với chính mình một cách rất trung thực. Chúng ta sẽ phải nhìn thẳng vào những yếu điểm và lầm lỗi của bản thân và vượt qua nỗi sợ hãi. Chúng ta sẽ phải để cho “cái tôi” của mình nhỏ lại để Thiên Chúa có thể lớn lên trong chúng ta. Chúng ta sẽ phải lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa bên trong chúng ta, để biết phải đi theo hướng nào.

Và lý do thứ ba mà tôi đưa ra là ngày càng có ít người ở Châu Âu, những người có thể dạy chúng ta cách làm thế nào để bước đi trên con đường này và cách nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa trong chúng ta. Vì vậy, ngay cả khi ai đó muốn thực hiện cuộc hành trình gian khổ “như lạc đà chui qua lỗ kim” thì cũng không dễ tìm được người có thể dạy dỗ họ. Ngay cả trong Giáo hội, Giáo huấn của Chúa Kitô thường được trình bày một cách rất nhu nhược và không những mất đi hương vị, mà trên hết là mất đi sự cuốn hút của nó. Đó là chân lý thuyết phục mọi người chứ không phải là thứ gì khác.

Vì vậy, câu hỏi chúng ta nên hỏi không còn quá nhiều nữa: Chúng ta có tin vào Thiên Chúa không; mà đúng hơn: Chúng ta có tin Thiên Chúa không? Nếu chúng ta tin Thiên Chúa, thì Lời Chúa phải trở thành nền tảng cho cuộc sống của chúng ta để Lời đó có thể được thực hiện trong chúng ta.

 Sự phát triển mạnh mẽ của đạo Công giáo ở châu Phi có ý nghĩa gì đối với lục địa này trong việc giải quyết các vấn đề lưu niên như nghèo đói, tội phạm, xung đột và bệnh tật?

 Nếu đức tin lan rộng trong chiều sâu tâm linh của nó ở Châu Phi, điều này sẽ mang lại những kết quả đáng kinh ngạc cho lục địa này. Sự cam kết sâu sắc với Thiên Chúa biến đổi mỗi con người. Do đó, anh ta khám phá ra lời mời gọi thực sự của mình, sự thật về bản thân và con người của mình. Mối tương quan của một người với Thiên Chúa càng gần gũi, thì người đó cũng lớn lên trong tình yêu thương thật sự. Tất nhiên, điều này cũng đến những kết quả cho hành động của anh ta. Người càng ngày càng lớn nên trong tình yêu thương sẽ không làm những hành vi phạm pháp. Một ai đó mang trong mình một tình yêu bao la, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì người khác (Ga 15,13) và do đó tháo gỡ nút thắt của vòng xoáy bạo lực vốn đã hình thành trong nhiều tình huống xung đột.

Đồng thời, Đức Kitô cũng đưa ra câu trả lời về ý nghĩa của sự đau khổ: Qua sự đau khổ của Thập giá, hoa trái của tình yêu đích thực được tỏ lộ. Khi bệnh tật, nghèo đói hoặc những đau khổ khác được hy sinh, một tiềm năng đáng kinh ngạc của tình yêu thương sẽ xuất hiện từ đó. Có đủ những mẫu gương về điều này từ cuộc đời của các Thánh, nhưng cũng rất cụ thể từ cuộc sống của người dân ở Châu Phi, những người sống giữa tình trạng khủng bố và bạo lực, sự đau khổ và bắt bớ đối với các Kitô hữu, nhưng vẫn thưa “xin vâng” với Thiên Chúa và với cuộc sống. Những người này nói rằng không phải lúc nào cũng dễ dàng tha thứ cho kẻ thù của họ. Nhưng họ nỗ lực mỗi ngày và do đó, họ trở nên ví dụ sống động về tình yêu đích thực và chân chính.

Sự phát triển này có phải là bằng chứng cho thấy các Kitô hữu đang đứng trước những mối đe dọa từ những người không muốn họ tồn tại trên lục địa không?

 Đúng là ở những khu vực nơi mà các Kitô hữu bị đàn áp vì đức tin của họ, đức tin của người dân đã đạt đến một chiều sâu đáng kinh ngạc. Chúng tôi đã gặp gỡ những góa phụ ở Maiduguri (thành phố ở Nigeria nơi Boko Haram được thành lập), những người nói với chúng tôi: “Những kẻ khủng bố có thể lấy đi mọi thứ của chúng tôi; họ có thể cướp đi nhà cửa của chúng tôi, họ có thể cướp đi nhà thờ của chúng tôi, họ có thể cướp mất chồng con của chúng tôi – vâng, họ thậm chí có thể lấy đi mạng sống của chúng tôi. Nhưng họ không thể lấy đi đức tin của chúng tôi”.

 Những người bén rễ sâu trong đức tin, được tình yêu của Thiên Chúa bao trùm lấy, có một sức mạnh không gì có thể chống lại nổi. Theo nghĩa này, họ cũng thu hút những người khác, những người sau đó có thể đạt đến chiều sâu đức tin này.

Minh Tuệ (theo Crux)

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube

Liên kết