Đức Tổng Giám mục John C. Wester: ‘Thế giới phải giải trừ vũ khí hạt nhân trước khi AI khơi mào ngày tận thế’

Đức Tổng Giám mục John C. Wester Địa phận Santa Fe, N.M., chia sẻ suy tư về sự cấp thiết phải giải trừ vũ khí hạt nhân trong buổi cầu nguyện cho các nhà ngoại giao Liên Hợp Quốc tại Nhà thờ Thánh Gia ở Thành phố New York vào ngày 12 tháng 9 năm 2022 (Ảnh: OSV News/ Gregory A. Shemitz)

Đức Tổng Giám mục John C. Wester Địa phận Santa Fe, N.M., chia sẻ suy tư về sự cấp thiết phải giải trừ vũ khí hạt nhân trong buổi cầu nguyện cho các nhà ngoại giao Liên Hợp Quốc tại Nhà thờ Thánh Gia ở Thành phố New York vào ngày 12 tháng 9 năm 2022 (Ảnh: OSV News/ Gregory A. Shemitz)

Trước “Cuộc Hành hương Hòa bình” lần thứ ba đến Nhật Bản nhân kỷ niệm 80 năm vụ ném bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki, Đức Tổng Giám mục John C. Wester đã phát biểu với OSV News về tình trạng hiện tại của hiểm họa hạt nhân và những nỗ lực nhằm giải trừ vũ khí hạt nhân trên toàn cầu.

Kinh thưa Đức Tổng Giám mục, ngà đánh giá như thế nào về bối cảnh toàn cầu hiện nay liên quan đến nguy cơ hạt nhân? Bulletin of Atomic Scientists hiện đang đặt “Đồng hồ Tận thế” ở thời điểm 89 giây trước nửa đêm.

Đáng buồn thay, tôi thiết nghĩ các nhà khoa học nguyên tử đã đánh giá đúng. Bối cảnh địa chính trị hiện nay thực sự rất phức tạp, rất căng thẳng, đầy lo âu. Chúng ta liên tục chứng kiến thêm nhiều trường hợp các quốc gia và khu vực đáng quan ngại — chẳng hạn như Ấn Độ và Pakistan; hoặc gần đây là Thái Lan và Campuchia (dù hai nước này không sở hữu vũ khí hạt nhân, nhưng đã trải qua các cuộc xung đột kéo dài). Tất nhiên, chúng ta đã theo dõi các diễn biến tại Ukraine suốt nhiều năm, cũng như tình hình ở Gaza và Lebanon. Có quá nhiều điểm nóng đang khiến người ta lo ngại.

Hiển nhiên là chúng ta đã sống dưới mối đe dọa bị tiêu diệt bởi vũ khí hạt nhân trong nhiều thập kỷ. Nhưng hiện nay, mối đe dọa ấy dường như càng trở nên đáng quan ngại hơn.

Làm thế nào để chúng ta thoát ra khỏi bờ vực hạt nhân này? Dường như nhiệm vụ đó quá nặng nề đến mức nhiều người nghĩ rằng chẳng còn cách nào ngoài việc hy vọng chiến tranh hạt nhân sẽ không bùng nổ.

Đúng vậy. Đây không phải là chủ đề mà người ta muốn nhắc đến — điều đó là dễ hiểu. Ngay cả tôi cũng không thích nói về điều đó.

Nhưng tôi thiết nghĩ chúng ta buộc phải lên tiếng. Chúng ta có trách nhiệm với chính mình, với con cháu chúng ta, với hành tinh này. Và chúng ta có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa. Đây là một vấn đề luân lý. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta món quà sự sống và món quà là công trình sáng tạo, như Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã diễn tả một cách hết sức tuyệt vời trong Thông điệp Laudato Si’. Chúng ta phải biết gìn giữ những món quà ấy.

Tôi thiết nghĩ chúng ta cần giữ niềm hy vọng. Chúng ta đang sống trong Năm Thánh của Niềm Hy vọng. Hãy đối diện với thực tế — đúng là thời cuộc đang rất đen tối, nhưng chúng ta cũng từng trải qua những thời kỳ đen tối trước đây. Hãy nhớ lại những năm 1960, 1970 và 1980, khi chúng ta đang sống trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Tổng thống John F. Kennedy khi ấy đã khởi xướng hiệp ước cấm thử nghiệm hạt nhân giới hạn cùng với Khrushchev sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962… Các nhà lãnh đạo có thể hợp tác với nhau.

Hiện tại, chúng ta đang bước vào một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân có thể còn nguy hiểm hơn trước kia, đặc biệt là với sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo, các hệ thống phóng tên lửa siêu thanh, và như tôi đã nói, trong bối cảnh thế giới đang hết sức căng thẳng.

Vì vậy, đúng là quá trình giải trừ vũ khí hạt nhân là một thách đố, và nó sẽ không xảy ra trong một sớm một chiều. Đó sẽ là một hành trình lâu dài, nhưng chúng ta đã từng thực hiện được, và chúng ta có thể làm lại.

Ngài muốn nhắn nhủ điều gì với những người ủng hộ việc duy trì vũ khí hạt nhân như một biện pháp răn đe vì an ninh quốc gia?

Nhiều người thường nói với tôi rằng: “Chúng ta cần vũ khí hạt nhân để răn đe”. Nhưng tôi cho rằng chính chiến lược răn đe lại đang trở thành kẻ thù lớn nhất của chúng ta — vì chính chiến lược này khiến chúng ta duy trì vũ khí hạt nhân mãi mãi.

Tất cả các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân — hiện có 9 quốc gia — và ai biết được tương lai sẽ có thêm bao nhiêu quốc gia nữa, đều cho rằng họ phải duy trì vũ khí này để răn đe.

Nhưng thực tế là khi sở hữu vũ khí hạt nhân, chúng ta tự đặt mình vào vòng nguy hiểm, vì có thể xảy ra một sự hiểu lầm, và chiến tranh hạt nhân có thể nổ ra theo kiểu như trong tiểu thuyết “Fail-Safe” (một tác phẩm năm 1962 của Eugene Burdick và Harvey Wheeler, mô tả một cuộc đối đầu hạt nhân bất ngờ giữa Mỹ và Nga).

Cũng có thể là một vụ khủng bố, hoặc một tai nạn nào đó. Trước đây đã từng xảy ra các sự cố hạt nhân.

Tôi còn nhớ Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dưới thời Kennedy từng nói rằng lý do duy nhất chúng ta tránh được chiến tranh hạt nhân trong cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 là nhờ may mắn. Và tôi không nghĩ thế giới nên đặt cược tương lai của mình vào may rủi như một chiến lược.

Đây là vấn đề phức tạp. Tôi biết nhiều người cho rằng chúng ta thật ngờ nghệch khi thúc đẩy việc giải trừ vũ khí hạt nhân, nhưng tôi sẽ hỏi lại: “Ai mới thực sự ngờ nghệch? Những người nghĩ rằng chúng ta có thể sống chung với vũ khí hạt nhân, hay những người khăng khăng rằng chúng ta cần phải loại bỏ chúng?”.

Ngài có lo ngại rằng trí tuệ nhân tạo (AI) có thể trở thành yếu tố làm gia tăng rủi ro hạt nhân?

Trí tuệ nhân tạo không có lương tâm. Vì vậy, AI sẽ hành động như một cỗ máy, và hoàn toàn có thể khơi mào một cuộc chiến tranh hạt nhân nếu hệ thống tính toán rằng đó là điều hợp lý nhất — mà không quan tâm đến thực tế rằng hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người sẽ thiệt mạng trong một cuộc tận thế hạt nhân như thế.

Tôi chắc chắn không muốn trao tương lai của mình vào tay AI, và tôi nghĩ chẳng ai muốn cả. AI không có lương tâm. Nó không có một nền tảng luân lý nào.

Tôi thiết nghĩ Đức Thánh Cha Lêô XIV đã rất sáng suốt khi bày tỏ sự thận trọng đối với AI, và đồng thời lên tiếng cảnh báo chúng ta phải dè dặt và thận trọng với công nghệ này.

Trong thời gian dài, ngài đã đồng hành chặt chẽ với những người từng trực tiếp chứng kiến và gánh chịu hậu quả của chiến tranh hạt nhân — như những người sống ở khu vực ảnh hưởng từ vụ thử bom nguyên tử Trinity, cũng như các nạn nhân sống sót tại Hiroshima và Nagasaki. Sự đồng hành này đã định hình hoạt động vận động giải trừ vũ khí hạt nhân của ngài như thế nào, đặc biệt là khi ký ức về những biến cố này đang dần phai nhạt theo thời gian?

Nhiều người thường nói với tôi: “Vũ khí hạt nhân chỉ đang nằm yên trong các hầm chứa. Chúng có làm hại ai đâu”.

Rõ ràng là chúng đã giết hại rất nhiều người ở Hiroshima và Nagasaki cách đây 80 năm, và cho đến nay, vẫn tiếp tục gây tổn thương dưới nhiều hình thức khác nhau. Những người sống ở vùng Tularosa Basin (nơi hứng chịu hậu quả phóng xạ và các tác động khác từ vụ thử bom nguyên tử Trinity năm 1945 tại Hoa Kỳ) là một ví dụ điển hình về những nạn nhân của việc phát triển vũ khí hạt nhân ở New Mexico.

Tina Cordova (đồng sáng lập Liên minh Tularosa Basin Downwinders), người đã kiên trì tranh đấu cho vấn đề này, có tới năm thế hệ trong gia đình mắc bệnh ung thư liên quan đến phóng xạ.

Vũ khí hạt nhân đã và đang tiếp tục gây tổn hại cho chúng ta bởi những người bị ảnh hưởng bởi nhiễm độc phóng xạ — và bởi việc chúng ta đang tham gia một chương trình tiêu tốn hàng ngàn tỷ USD để hiện đại hóa kho vũ khí hạt nhân của quốc gia. Số tiền đó đáng lẽ có thể được dùng cho việc nghiên cứu ung thư, cho việc giáo dục trẻ em. Nó có thể được sử dụng vào muôn vàn việc hữu ích nhằm nâng cao đời sống nhân loại tại Hoa Kỳ cũng như trên toàn thế giới.

Do đó, vũ khí hạt nhân không chỉ là mối đe dọa tiềm ẩn, mà thực tế đã và đang gây tổn hại cho chúng ta theo nhiều cách thức khác nhhau.

Rõ ràng là chúng ta đang đùa với lửa. Và nếu tiếp tục chơi đùa với lửa đủ lâu, chắc chắn chúng ta sẽ bị bỏng.

Vậy người giáo dân bình thường — những người đang đi làm, nuôi dạy con cái, sống đức tin — có thể làm gì để góp phần thúc đẩy việc giải trừ vũ khí hạt nhân?

Tôi thiết nghĩ đó là một câu hỏi hay. Bản thân tôi cũng thường tự hỏi như vậy, và tôi cũng đã hỏi các giáo dân của chúng tôi tại Tổng Giáo phận Santa Fe.

Tôi nghĩ chúng ta cần xác tín rằng Thiên Chúa hành động qua từng người trong chúng ta, rằng tất cả chúng ta đều được Chúa Kitô kêu gọi qua Bí tích Rửa Tội để loan báo Tin Mừng. Vì thế, đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của điều đó.

Nếu tất cả người Công giáo bắt đầu thúc đẩy việc giải trừ vũ khí hạt nhân, điều đó sẽ tạo ra ảnh hưởng.

Rõ ràng, xét trên góc độ thực tế, chúng ta cần bày tỏ lập trường của mình với các quan chức dân cử. Họ quan tâm đến các cuộc thăm dò, họ chú ý đến lá phiếu. Vậy thì chúng ta phải cho họ biết. Nếu có đủ người cất tiếng nói rằng: “Chúng tôi muốn quý vị hành động về vấn đề này”, thì việc đó sẽ được thực hiện.

Nhưng ngay cả khi bỏ qua yếu tố chính trị, nếu có ý chí luân lý và quyết tâm, thì điều đó sẽ chiến thắng. Vì thế, tôi thiết nghĩ người Công giáo cần tích cực hành động.

Tôi khuyến khích các Giáo xứ thành lập các ủy ban hòa bình và công lý để khơi dậy chủ đề này, để cùng nhau tìm hướng giải quyết. Tại một trong các Giáo xứ của chúng tôi, các thành viên của ủy ban đó rất nhiệt tình tham gia vào phong trào giải trừ vũ khí hạt nhân. Và tiếng nói của họ được lắng nghe.

Từng bước một, thông điệp sẽ lan rộng. Tôi tin rằng điều đó có tác động.

Vì vậy, điều cốt yếu là tin tưởng rằng ThiênChúa sẽ hành động qua những nỗ lực của chúng ta, và công việc chúng ta làm sẽ sinh hoa trái.

Minh Tuệ (theo OSV News)

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube

Liên kết