Đức Hồng y Parolin: ‘Sứ mệnh của Đức Hồng y Zuppi tại Ukraine và Nga cực kỳ quan trọng’

Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.

Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.

Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Hồng y Pietro Parolin, đã có cuộc trò chuyện với Ignazio Ingrao, phóng viên Vatican của kênh Tg1 của RAI, và nhắc lại trên chương trình thời sự của đài truyền hình quốc gia Ý rằng chúng ta không thể cam chịu chiến tranh. Về khả năng hồi hương những đứa trẻ Ukraine bị trục xuất sang Nga, Đức Hồng y Parolin cũng cho biết rằng “chúng tôi đang cố gắng tìm ra các cơ chế khác nhau” để hy vọng thực hiện được điều đó.

Trong một cuộc phỏng vấn được phát sóng trên RAI của Đài truyền hình Nhà nước Ý, Tg1, vào lúc 8 giờ tối hôm thứ Năm, Quốc Vụ Khanh Vatican đã nói về sứ mệnh hòa bình của Đức Hồng y Matteo Zuppi, Đặc phái viên của Đức Thánh Cha trước hết ở Kyiv, và sau đó ở Moscow. Đức Hồng y Parolin cũng đã thảo luận về những người di cư và người tị nạn, hy vọng về các giải pháp được truyền cảm hứng bởi tinh thần liên đới, và 75 năm sau Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế, lời kêu gọi bảo vệ tự do tôn giáo ở những nơi vẫn còn bị đàn áp. Dưới đây là bản dịch làm việc bằng tiếng Anh của cuộc phỏng vấn được thực hiện bằng tiếng Ý:

Kính thưa Đức Hồng Y Parolin, liệu thế giới có nguy cơ một lần nữa bị chia cắt thành các khối như thời ‘Chiến tranh Lạnh’ không?

Thật không may, chúng ta đã đi từ Chiến tranh Lạnh đến Chiến tranh thế giới thứ III ‘từng phần’ như Đức Thánh Cha Phanxicô muốn nhắc lại, nhưng chiến tranh dưới hình thức này hay hình thức khác rõ ràng luôn là sự đối kháng giữa con người, giữa các nhóm, giữa các quốc gia, giữa các lục địa. Và vì vậy, ngày nay, chúng ta đang chứng kiến sự trỗi dậy của các nhóm chống đối. Tôi tin rằng đây không phải là một diễn biến mới: từ lâu chúng ta đã nhận thức được những chia rẽ, những đối lập, những căng thẳng này trong cộng đồng quốc tế, điều sau đó cũng dẫn đến những hiện tượng bi thảm như xung đột và chiến tranh.

Tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn không thể cam chịu khuynh hướng này. Chúng ta phải phục hồi tinh thần đã cổ võ cộng đồng quốc tế ngay sau Chiến tranh thế giới thứ II, sau đó dẫn đến tiến trình Helsinki và các tuyên bố Helsinki, đồng thời tái khám phá những hy vọng và lý tưởng đã hiện diện ở đó, theo một cách rất mạnh mẽ, nhất là với tư cách là hậu quả của kinh nghiệm chiến tranh, và điều đó làm cho việc tái xây dựng kết cấu của các mối quan hệ quốc tế trở nên khả thi.

Làm thế nào để ngăn chặn nguy cơ ‘leo thang hạt nhân’?

Leo thang hạt nhân là một vấn đề quan trọng. Ngày nay có 9 quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân. Đối với tôi, dường như xu hướng không phải là giảm kho vũ khí hạt nhân, mà là càng ngày càng gia tăng. Và xu hướng là các quốc gia khác hiện không sở hữu vũ khí hạt nhân sở hữu chúng vì mục đích phòng thủ, sự răn đe hạt nhân nổi tiếng.

Quan điểm của Giáo hội là rõ ràng, quan điểm của Đức Giáo hoàng cũng hết sức rõ ràng: sở hữu và sử dụng vũ khí hạt nhân là vô đạo đức vì nó đồng nghĩa với việc hủy diệt nhân loại và hủy diệt thế giới.

Làm thế nào nó có thể tránh được nguy cơ này? Tôi tin rằng cách thức duy nhất là bắt đầu một chương trình nghiêm túc nhằm dỡ bỏ những kho vũ khí này. Không có lựa chọn nào khác. Vũ khí hạt nhân phải bị  loại bỏ để chúng không còn gây ra mối nguy hiểm này cho toàn thể nhân loại.

Ngài đánh giá thế nào về sứ mệnh của Đức Hồng Y Zuppi tại Kyiv và Moscow, và các bước tiếp theo là gì?

Đó là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Sứ mệnh đến Moscow là một phần của sáng kiến toàn cầu do Đức Thánh Cha Phanxicô đề xuất, bao gồm điểm dừng chân đầu tiên ở Kiev và sau đó là điểm dừng chân thứ hai ở Moscow. Về phần Đức Hồng Y Zuppi, trước hết nó tập trung vào khía cạnh nhân đạo: trao đổi tù nhân và hồi hương trẻ em, và điều này đòi hỏi phải có một cuộc đàm phán với Moscow. Tôi muốn nói rằng về điểm này, mọi việc diễn ra khá suôn sẻ theo nghĩa là Đức Hồng Y Zuppi đã có thể gặp gỡ ông Ushakov, đại diện của Tổng thống Nga cũng như bà Belova. Trên thực tế, đã có hai cuộc gặp gỡ với ông Ushakov, điều đó có nghĩa là phía Nga đã nhận được sự chú ý, ý chí và sự quan tâm này của Tòa thánh. Giờ đây, cần phải tìm ra các cơ chế giúp tăng khả năng áp dụng những kết luận đã đạt được này, có thể với sự giúp đỡ của một tổ chức quốc tế nào đó sẽ cho phép thực hiện những kết quả này.

Liệu sẽ có cơ hội để nhìn thấy những đứa trẻ này trở lại?

Tôi chưa biết vì chúng tôi chưa ở giai đoạn này. Chúng tôi hiện đang cố gắng tìm ra các cơ chế khác nhau. Nếu điều này hiệu quả, và chúng tôi chân thành hy vọng rằng nó sẽ thành công, chúng ta cũng sẽ thấy việc hồi hương. Tôi không biết hiện tại với số lượng bao nhiêu và ở mức độ nào.

Đối với chúng tôi, điều này rất quan trọng bởi vì những cử chỉ nhân đạo này cũng có thể là những con đường dẫn đến hòa bình. Đó là lý do tại sao người ta nhấn mạnh rất nhiều vào khía cạnh nhân đạo này cũng như một sự trợ giúp để chấm dứt chiến tranh.

Cách đây 60 năm, Thông điệp ‘Pacem in Terris’ của Thánh Gioan XXIII đã chỉ ra sự thật, công lý, tự do và bác ái, như những trụ cột làm nền tảng cho hòa bình. Hòa bình ở Ukraine sẽ như thế nào?

Hòa bình ở Ukraine sẽ phải là một nền hòa bình công bằng. Chúng tôi đã lặp đi lặp lại điều này nhiều lần. Và vì vậy, nền hòa bình này sẽ phải tính đến những nguyên tắc cơ bản giống như những cây cột chống đỡ ngôi nhà. Không có những trụ cột này, mọi công trình đều có nguy cơ trở nên phù du và có nguy cơ sụp đổ ngay lần va chạm đầu tiên, trước những khó khăn đầu tiên.

 Tôi tin rằng sự thật có nghĩa là công nhận các quyền và nghĩa vụ của nhau. Trước hết, nó đồng nghĩa với việc tính đến phẩm giá của tất cả mọi người. Và sau đó là bảo vệ luật pháp quốc tế, vốn là điều cơ bản. Điều mà Tòa Thánh luôn yêu cầu là luật pháp quốc tế phải được áp dụng, tất cả các quốc gia đồng ý tuân thủ luật pháp quốc tế như là cách để duy trì hòa bình và giải quyết xung đột. Vì vậy, chủ đề đối thoại, đàm phán, con đường công lý và công nhận biên giới, quyền tự quyết của các dân tộc, tôn trọng các nhóm thiểu số: tất cả những chuỗi nguyên tắc này nằm trong chủ đề của luật pháp quốc tế.

Liên Hợp Quốc có cần được cải tổ? Ngài hình dung thế nào về Liên Hợp Quốc trong tương lai?

Vâng, một cuộc cải cách của Liên Hợp Quốc là điều cần thiết. Chúng tôi với tư cách là Tòa Thánh luôn ủng hộ LHQ, các Đức Giáo hoàng luôn thể hiện sự ủng hộ của mình ngay cả khi thực hiện chuyến thăm cụ thể tới trụ sở LHQ ở New York. Những gì chúng ta có thể tưởng tượng, những gì chúng ta có thể mơ ước, những gì chúng ta có thể mong muốn. Đó thực sự là một sự củng cố của LHQ và các tổ chức quốc tế.

Một sự củng cố theo nghĩa tất cả các quốc gia thành viên biết cách hành động trên tinh thần hướng tới thiện ích chung của toàn thể nhân loại. Đó là khái niệm về gia đình các quốc gia. Do đó, một Liên hợp quốc mà các lợi ích cụ thể, riêng biệt không chiếm ưu thế, nơi các ý thức hệ không chiếm ưu thế. Một Liên Hợp Quốc nơi phẩm giá của mỗi quốc gia được tôn trọng mà không có sự phổ biến của các quốc gia mạnh hơn. Một LHQ có khả năng ngăn ngừa và giải quyết xung đột, thông qua các cơ chế phù hợp với mục đích. Và theo nghĩa này, tôi tin rằng cần phải cải cách để LHQ có thể trở lại như những gì nó vốn có khi thành lập. Một số bước đã được thực hiện, đó không phải là điều dễ dàng …

Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi châu Âu thực hiện phần việc của mình. Nhưng về vấn đề di cư, EU vẫn bị chia rẽ. Chúng ta có cần một châu Âu thống nhất hơn về vấn đề di cư?

Đây là một thực tế rất đáng buồn, bởi vì chúng ta tin chắc rằng vấn đề người di cư là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, chúng ta biết rằng vấn đề người di cư ngày nay là một trong những vấn đề toàn cầu lớn và sẽ không phải là một giải pháp dễ dàng và tức thời. Đối với chúng tôi, dường như con đường dẫn đến giải pháp chính xác là tinh thần liên đới và sự đảm đương chung về vấn đề này, cũng như những cách thức để tìm ra câu trả lời cho vấn đề này. Tôi tin rằng sự chia rẽ chẳng giúp ích gì và làm tăng thêm những khó khăn trong việc giải quyết hiện tượng này một cách nhân đạo và có trật tự.

Hòa bình dường như cũng rất xa vời ở Trung Đông. Chúng ta chứng kiến những căng thẳng mới sau cuộc tấn công vũ trang của Israel ở Jenin. Cần phải làm gì?

Thật không may, tình hình theo thời gian trải qua những gia tốc và tồi tệ hơn. Giải pháp cuối cùng là sự công nhận của hai nhà nước, đây là giải pháp cho vấn đề trong quan hệ giữa người Israel và người Palestine. Để đi đến giải pháp hai nhà nước, chúng ta cần đối thoại trực tiếp giữa hai nhà nước, điều mà hiện nay, theo tôi biết, không tồn tại, cũng bởi vì thiếu sự tin tưởng lẫn nhau, bởi vì một cuộc đối thoại chỉ có thể được tiến hành nếu có ít nhất là sự tin tưởng lẫn nhau. Giờ đây sự tin tưởng đó đã bị phá hủy. Nhưng điều đó giống như một con mèo tự cắn đuôi mình bởi nếu bạn không thực hiện một số cử chỉ nhỏ, một vài cử chỉ đáp lại, lòng tin sẽ không thể lấy lại được.

Lời kêu gọi đầu tiên là tránh sử dụng bạo lực. Đừng bao giờ dùng bạo lực để giải quyết vấn đề vì bạo lực đồng thời làm gia tăng các vấn đề hôm nay và mai sau. Sau đó, điều quan trọng là phải bắt đầu trò chuyện với nhau một lần nữa với sự tin tưởng tối thiểu và cùng nhau tìm kiếm một giải pháp chung vốn chắc chắn sẽ mang lại hòa bình và thịnh vượng trong toàn khu vực cũng dựa trên các nghị quyết của Liên Hợp Quốc.

70 năm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Có phải tự do tôn giáo, đặc biệt là ở phương Tây ngày nay, cũng bị đe dọa bởi ‘văn hóa tẩy chay’ và sự thực dân hóa ý thức hệ?

Tự do tôn giáo là một trong những trụ cột của nhân quyền. Giáo hội luôn khẳng định điều này vì nó chạm đến lương tâm và phần sâu kín nhất của con người, và điều này áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả những người không có đức tin. Và ngày nay, đối với tôi, dường như một nỗ lực đang được tiến hành nhằm ngày càng thu hẹp không gian tự do tôn giáo. Một mặt, chúng ta chứng kiến các cuộc tấn công liên tục nhắm vào những nơi thờ phượng và những cử chỉ liên tục làm suy yếu tự do tôn giáo, những cuộc bách hại đang xảy ra trên thế giới. Và mặt khác, nỗ lực ngăn cản đức tin và đạo đức có tiếng nói trước công chúng. Tôi tin rằng nhân dịp kỷ niệm này, tất cả các quyền cơ bản của con người phải được khôi phục như trong Hiến chương đã được thông qua cách đây 75 năm, và cũng phải đặc biệt chú ý đến vấn đề tự do tôn giáo, như Thánh Gioan Phaolô II đã nói, là phép thử cho sự tôn trọng đối với tất cả các quyền khác.

Phải chăng quan niệm về nam và nữ cũng bị đe dọa?

Chắc chắn như vậy. Chúng tôi yêu cầu phải có thể bày tỏ tầm nhìn của chúng tôi về đàn ông và phụ nữ một cách công khai. Và tôi xác tín rằng tầm nhìn này là tầm nhìn xuất phát từ Tin Mừng khởi nguồn từ truyền thống của Giáo hội. Một tầm nhìn có thể thực sự bảo vệ, bênh vực và thăng tiến con người và nhân loại nói chung, và mỗi người nam giới và phụ nữ nói riêng. Đề xuất của Giáo hội bắt nguồn từ điều này, đó không phải là một sự áp đặt của một tầm nhìn cụ thể. Chúng tôi tin rằng chúng tôi thực sự có thể giúp mỗi nam giới và phụ nữ trở nên như vậy và hạnh phúc thông qua việc tuân thủ những giá trị này được soi dẫn bởi Tin Mừng.

Thậm chí thông qua việc bảo vệ gia đình?

Gia đình là một điểm khác, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng hiện nay, đáng được tất cả mọi người chú ý nhiều hơn, bảo vệ nhiều hơn, thăng tiến nhiều hơn. Bởi vì nếu có các gia đình hạnh phúc thì xã hội mới tốt đẹp. Chúng ta thực sự tin rằng gia đình là tế bào của xã hội: tế bào khỏe mạnh thì cơ thể cũng khỏe mạnh. Chính từ tầm nhìn tích cực này mà cam kết của chúng ta, đôi khi không được nhận thức rõ ràng, được sinh ra. Tôi hiểu rằng cũng rất khó để đi vào viễn cảnh này: cam kết của chúng ta là đề nghị tầm nhìn Kitô giáo với thế giới ngày nay”.

Minh Tuệ (theo Vatican News)

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube

Liên kết