
Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Vatican, rời phiên họp buổi sáng của Thượng hội đồng Giám mục về Amazon tại Vatican, ngày 8 tháng 10 năm 2019 (Ảnh: CNS / Paul Haring)
Với thỏa thuận giữa Vatican-Trung Quốc về việc bổ nhiệm các Giám mục sẽ hết hạn vào tháng 10, Đức Hồng y Pietro Parolin hy vọng rằng thỏa thuận có thể được điều chỉnh.
Trong phần thứ ba của cuộc phỏng vấn trực tiếp với CNA, Quốc Vụ Khanh Vatican đã thảo luận về thỏa thuận, văn bản của thỏa thuận này chưa bao giờ được công bố. Nhưng Đức Hồng y Parolin đã không đi vào chi tiết hoặc giải thích chính xác những khía cạnh mà ngài hy vọng sẽ thay đổi.
Đức Hồng y Parolin cũng đã nói về mối bận tâm sâu sắc của Vatican đối với Việt Nam, vùng Balkan và vùng Caucasus. (Trong Phần 1 của cuộc phỏng vấn kéo dài một tiếng đồng hồ, Đức Hồng y Parolin đã đề cập đến những nỗ lực của Vatican nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh Ukraine và trong Phần 2 là việc cải tổ Giáo triều Rôma).
Tòa Thánh lần đầu tiên ký thỏa thuận tạm thời với Trung Quốc vào tháng 9 năm 2018. Thỏa thuận có thời hạn hai năm và được gia hạn thêm hai năm vào tháng 10 năm 2020, không có điều chỉnh hay sửa đổi.
Kể từ khi thỏa thuận được thực hiện, đã có sáu cuộc tấn phong Giám mục Công giáo ở Trung Quốc với sự chấp thuận từ cả phía Tòa Thánh lẫn chính phủ Trung Quốc. Các điều khoản của thỏa thuận chưa bao giờ được tiết lộ.
Với thời điểm hết hạn đang đến gần, Đức Hồng y Parolin cho biết: “Chúng tôi đang suy nghĩ về những việc cần phải làm. COVID đã không giúp được chúng tôi vì nó làm gián đoạn cuộc đối thoại đang diễn ra. Chúng tôi đang cố gắng tiếp tục đối thoại một cách cụ thể, với các cuộc họp mà chúng tôi hy vọng sẽ sớm diễn ra. Chúng tôi sẽ phản ánh về kết quả của thỏa thuận và có thể cần phải làm rõ hoặc xem xét một số điểm”.
Khi được hỏi liệu ngài có muốn điều chỉnh thỏa thuận hay không, vị Hồng y 67 tuổi người Ý trả lời: “Tôi hy vọng như vậy”.
Về quan hệ với Việt Nam, một trong số ít quốc gia còn lại không có quan hệ ngoại giao chính thức với Tòa Thánh, Đức Hồng y Parolin cho biết sẽ sớm có một phái đoàn của Vatican đến thăm lại Việt Nam.
“Chúng tôi đang làm việc trên một phương pháp hợp nhất của các mối quan hệ và đối thoại”, Đức Hồng y Parolin nói. “Sau khi bổ nhiệm đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam vào năm 2012, bước tiếp theo cần đạt được là sự hiện diện của đại diện Tòa Thánh trong nước”.
Một khu vực khác được Tòa Thánh đặc biệt quan tâm là Balkans. Trong chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Hy Lạp, đã có một cuộc họp song phương giữa các quan chức của Quốc Vụ Khanh Vatican và các quan chức của Bộ Ngoại giao Hy Lạp. Bộ trưởng Nikos Dendias đã đề xuất một phòng kiểm soát về vùng Balkans, một hình thức bàn ngoại giao mà tại đó Tòa Thánh sẽ có một vị trí.
Không có tin tức nào về việc theo dõi đề xuất, và ngay cả Đức Hồng y Parolin cũng nói rằng ngài không hay biết về bất kỳ diễn biến cụ thể nào. “Ý tưởng cho đến bây giờ vẫn như vậy”, Đức Hồng y Parolin nói.
Tuy nhiên, Đức Hồng y Parolin cho biết thêm, “về phần ngoại giao của Tòa Thánh, có sự quan tâm đặc biệt đối với các quốc gia thuộc vùng Balkan. Đó là một khu vực có những căng thẳng đáng kể và sự lo ngại rằng những căng thẳng này có thể dẫn đến điều gì đó tồi tệ hơn. Đức Tổng Giám mục Gallagher, Ngoại Trưởng Tòa Thánh, gần đây đã đến thăm Bosnia-Herzegovina chính xác để làm chứng cho sự quan tâm của Tòa Thánh”.
“Tôi không biết liệu ý tưởng về phòng điều khiển này có phục hồi hay không”, Đức Hồng y Parolin cho biết thêm, “nhưng chúng tôi chắc chắn không được ngừng chú ý và giúp đỡ khu vực Balkan bằng mọi cách thức có thể”.
Tòa Thánh được kêu gọi để duy trì sự cân bằng khó khăn ở Caucasus. Đặc biệt, sau cuộc xung đột ở Nagorno-Karabakh và nền hòa bình đau thương cho người Armenia, có những lo ngại rằng di sản Kitô giáo của khu vực đang bị đe dọa.
Nagorno-Karabakh được hợp nhất với Azerbaijan trong thời kỳ Liên Xô và sau đó tuyên bố độc lập khỏi Baku khi Azerbaijan tách khỏi Liên bang Xô viết. Cuộc xung đột năm 2020 đã đưa một vùng lãnh thổ trước đây do người Armenia kiểm soát trở lại dưới sự kiểm soát của người Azerbaijan, làm dấy lên lo ngại về di sản văn hóa của nước này.
Nghị viện châu Âu gần đây đã thông qua một nghị quyết lên án “việc phá hủy di sản văn hóa ở Nagorno-Karabakh”, trong khi vào tháng 12, Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng Azerbaijan nên “thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để ngăn chặn và trừng phạt các hành vi phá hoại và xúc phạm ảnh hưởng đến di sản văn hóa Armenia”.
Người Azeri cũng phàn nàn rằng người Armenia trong khu vực đã phá hủy di sản văn hóa của họ. Do đó, Tòa Thánh tự nhận thấy mình đang ở trong một tình huống nan giải bởi Tòa Thánh có quan hệ tốt đẹp với cả Armenia lẫn Azerbaijan. Ví dụ, Tòa Thánh và Azerbaijan đã ký một thỏa thuận nhằm khôi phục và bảo tồn các hầm mộ Santa Priscilla ở Rôma. Azerbaijan đã tài trợ cho một số công trình trùng tu thông qua quỹ do phu nhân của Tổng thống Ilham Aliyev chủ trì.
Tòa Thánh tự nhận thấy mình ở một vị trí khó khăn trong việc duy trì sự cân bằng mà không phá hỏng các mối quan hệ. Để duy trì sự cân bằng, Đức Hồng y Parolin giải thích, “chúng tôi luôn đề cập đến các nguyên tắc cần định hướng cho các mối quan hệ quốc tế”.
Liên quan đến Nagorno Karabakh, Đức Hồng y Parolin nói, “Tòa Thánh ủng hộ đề xuất của một ủy ban bao gồm các chuyên gia đến từ UNESCO, được cử đến địa điểm với nhiệm vụ thăm dò để xác minh bởi vì có những cáo buộc lẫn nhau về việc đe dọa hủy hoại các di sản lịch sử và văn hóa của họ”.
“Tòa Thánh cũng đã đề nghị sẵn sàng tham gia cùng với một chuyên gia. Tuy nhiên, cho đến nay, điều đó đã không thể thực hiện được. Điều này cũng cho thấy những căng thẳng vẫn tiếp tục tồn tại, đến mức không có sáng kiến nào, thậm chí không phải của các bên thứ ba, có thể được tạo ra để giúp các bên xích lại gần nhau hơn”.
Quốc Vụ Khanh Vatican cũng đề cập đến vấn đề các công trình tôn giáo có nguy cơ bị đe dọa ở châu Âu, nơi ngày càng có nhiều vụ tấn công nhắm vào các cơ sở thờ tự. Ví dụ, một báo cáo của chính phủ Pháp được công bố vào tháng Hai cho thấy rằng vào năm 2021, đã có 1.659 hành vi chống tôn giáo ở Pháp, trong đó 857 hành vi chống lại Kitô giáo.
Đức Hồng y Parolin nói: “Thật không may, đó là một hiện tượng rất phổ biến ở Pháp, và hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân của vụ cháy Nhà thờ Đức Bà. Số lượng các vụ tấn công chỉ ra rằng sự không khoan dung tôn giáo đang ngày càng gia tăng bất chấp mọi nỗ lực để tôn trọng lẫn nhau”.
“Tôi nhận thấy cam kết này cần được tôn trọng ở cấp cao. Ví dụ, tôi đã có thể cảm nhận được điều này trong chuyến đi của tôi đến Dubai đại diện Tòa thánh tham dự Hội chợ triển lãm thế giới Expo. Nhưng, mặt khác, chúng ta không thể coi nhẹ vấn đề của sự cực đoan hóa do nhiều yếu tố khác nhau”.
Cuối cùng, Đức Hồng y Parolin đã đề cập đến Châu Phi. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến thăm Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan từ ngày 2-7 tháng 7. Đức Thánh Cha đã dành sự quan tâm đáng kể đối với Nam Sudan, quốc gia non trẻ nhất trên thế giới, triệu tập các nhà lãnh đạo của họ đến Vatican để tham dự một cuộc tĩnh tâm vào năm 2019.
Trong khi đó, Tòa Thánh đã thiết lập Tòa Khâm Sứ tại Nam Sudan vào tháng 6 năm 2019. Sứ Thần Tòa Thánh tại Nam Sudan theo truyền thống là Sứ Thần tại Nairobi, Kenya, nơi ngài cũng đại diện cho Tòa Thánh tại văn phòng Liên hợp quốc ở Châu Phi. Việc thành lập một Tòa Khâm Sứ thường trực, với một vị đại biện chuyên chăm sóc các mối quan hệ, là một dấu hiệu của sự quan tâm ngoại giao đặc biệt của Tòa Thánh.
Nhưng Đức Hồng y Parolin cho biết rằng không có cuộc trò chuyện về việc chỉ định một Sứ Thần Tòa Thánh cho Nam Sudan. “Đây không phải là vấn đề mà chúng tôi đang nghiên cứu vào lúc này. Cũng không có câu hỏi nào được đưa ra liên quan đến chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha”, Đức Hồng y Parolin giải thích.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn đến thăm Nam Sudan trong suốt nhiều năm qua, nhưng cuộc tĩnh tâm vào năm 2019 đã không tạo điều kiện ngay lập tức cho chuyến viếng thăm này. Cuối cùng, Đức Tổng Giám mục Gallagher đã đến thăm đất nước vào tháng 12 năm 2021, mở đường cho việc công bố chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Đức Hồng y Parolin nhắc lại rằng Đức Thánh Cha Phanxicô “đã muốn có một cuộc tĩnh tâm tinh thần, với ý tưởng mang lại sức sống mới cho các cuộc đàm phán đang diễn ra và mang lại một âm điệu thiêng liêng cho cuộc đối thoại”.
“Ngoại giao của chúng ta là ngoại giao của những phát ngôn và sự thuyết phục. Nó hoạt động hiệu quả nếu nó được lắng nghe”, Đức Hồng y Parolin nhận xét.
Đó thực sự là một sự hạn chế, điều này cũng được thấy trong cuộc chiến Ukraine, nơi mà câu chuyện phổ biến không thể che giấu sự thật rằng người dân Ukraine đang một mình chiến đấu.
“Và họ đang phải trả giá cho sự căng thẳng”, Đức Hồng y Parolin lưu ý, “đặc biệt là ở cấp độ dân thường”.
“Vì vậy, tôi tin rằng đây nên là quan điểm duy nhất để bắt đầu từ hôm nay. Không phải là quá nhiều những diễn ngôn ngoại giao, chính trị mà là ý thức rằng người dân đang phải trả một cái giá quá đắt”.
Minh Tuệ (theo CWR)