
Một tay bắn tỉa người Ukraine ở tiền tuyến ở khu vực Luhansk, miền đông Ukraine, vào ngày 28 tháng 1 năm 2022 (Ảnh: AP / Vadim Ghirda)
Một cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine dường như sắp xảy ra, nhưng không ai thực sự giành chiến thắng nếu điều này xảy ra. Các tác động về kinh tế toàn cầu và an ninh lương thực sẽ rơi vào một những người dễ bị tổn thương nhất cách không tương xứng. Mối bận tâm của Giáo hội Công giáo đối với công ích và các nguyên tắc chiến tranh chính nghĩa đòi hỏi chúng ta phải tìm kiếm một giải pháp ngoại giao có thể ngăn chặn những tai họa mà một cuộc xung đột sẽ gây ra. Đặc biệt, một sự can thiệp cá nhân của Đức Thánh Cha Phanxicô có thể là hy vọng cuối cùng của chúng ta đối với các cuộc đàm phán thành công để gìn giữ hòa bình.
Đáng chú ý, Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong Thoogn điệp “Fratelli Tutti” rằng: “ngày nay rất khó dựa vào các tiêu chí hữu lý, đã được suy nghĩ thấu đáo trong các thế kỷ trước, để nói về khả năng gây ra một ‘cuộc chiến tranh chính nghĩa’” (số 258), một phần là do sức công phá của các loại vũ khí hiện đại. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là luân lý Công giáo đương thời kêu gọi chủ nghĩa hòa bình mọi mặt; khuôn khổ của chiến tranh chính nghĩa cho phép các nhà lãnh đạo đánh giá liệu hành động quân sự có hợp lý hay không dựa trên các nguyên tắc truyền thống và những cân nhắc thực tế.
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo tóm tắt các tiêu chuẩn truyền thống về việc sử dụng vũ lực: Để lập luận rằng một cuộc chiến là chính nghĩa, nó phải đáp ứng các tiêu chuẩn của cả jus ad bellum (các điều kiện cho chiến tranh) lẫn jus in bello (hành vi của các bên tham chiến): “quyền chiến đấu” và nghĩa vụ “chiến đấu đúng đắn”. Trong bối cảnh các cuộc chiến tranh gần đây dẫn đến việc xây dựng quốc gia thất bại và chiến tranh du kích liên miên, các học giả đã tranh luận về việc bổ sung phạm trù thứ ba: một phân tích jus post bellum rõ ràng về môi trường sau chiến tranh sẽ đảm bảo một kế hoạch rút lui chặt chẽ và đánh giá thực tế về rủi ro và thiệt hại trong trường hợp xấu nhất.
Trong bài viết ngắn gần đây của mình trên tờ America, John Davenport thuộc Đại học Fordham đã lập luận một cách đúng đắn rằng truyền thống chiến tranh chính nghĩa không cho phép các cuộc chiến tranh xâm lược nhưng cho phép sử dụng vũ lực để đảo ngược hành động xâm lược bất chính, giống như các động thái của Nga chống lại Ukraine. Ông tiếp tục lập luận rằng Tổng thống Hoa Kỳ Joseph R. Biden Jr. nên thực hiện ba bước để đối phó với cuộc khủng hoảng. Trước tiên, ông Biden nên nói rõ rằng việc cấm Ukraine gia nhập NATO là điều không tưởng. Thứ hai, ông nên gây áp lực buộc Tổng thống Nga Vladimir Putin phải rút lực lượng của mình bằng cách đe dọa xúc tiến việc Ukraine trở thành thành viên NATO (một điều ảo tưởng, vì Ukraine còn lâu mới đạt được tiêu chí gia nhập và mọi thành viên hiện tại của liên minh đều có quyền phủ quyết), cũng như bằng cách gửi viện trợ gây ra ra sự giết chóc. Cuối cùng, ông Biden nên báo hiệu rằng Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu của họ đã sẵn sàng tham chiến để đẩy lùi bất kỳ cuộc xâm lược nào nữa nhằm vào Ukraine.
Tổng thống Biden đã nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng ông không có ý định leo thang cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine thành một cuộc xung đột toàn cầu. Ông cho rằng hành động như vậy có thể sẽ tạo ra những hậu quả tiêu cực không tương xứng với những hậu quả mà nó cố gắng loại bỏ. Tuy nhiên, rất khó để răn đe một cường quốc lớn chỉ với việc đe dọa trừng phạt, và việc loại bỏ bất kỳ phản ứng quân sự nào có nguy cơ bị hiểu nhầm là sự bạc nhược, đặc biệt là sau khi Mỹ từ bỏ đồng minh của mình ở Afghanistan.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã lập luận rằng các mục tiêu của ông Putin dường như bao gồm việc áp đặt một phạm vi ảnh hưởng trong khu vực. Đây sẽ là một mối đe dọa rõ ràng đối với các nguyên tắc của cấu trúc an ninh châu Âu được phát triển sau Chiến tranh Lạnh, trong đó không quốc gia nào có thể thay đổi biên giới của quốc gia khác bằng vũ lực, ra a lệnh cho quốc gia mà quốc gia đó có thể liên kết hoặc khuất phục quốc gia khác theo ý muốn của mình. Như ông Blinken lưu ý, có những mối đe dọa toàn cầu nghiêm trọng khi cho phép Nga bất chấp các nguyên tắc này mà không bị trừng phạt. Tuy nhiên, thông điệp trung thực xung quanh triển vọng thấp về việc Ukraine sắp chấp nhận gia nhập NATO có thể hữu ích nếu nó làm giảm nhận thức về mối đe dọa của Nga. Điều này không đồng nghĩa với việc từ bỏ các nguyên tắc cốt lõi.
Điều mà Thomas Wright tại The Atlantic gọi là “cách tiếp cận cửa trượt” — cố gắng tăng cái giá phải trả cho cuộc xâm lược của Nga trong khi đồng thời tăng phần thưởng dành cho việc giảm leo thang — có thể có những triển vọng thành công tốt hơn là phô trương vũ lực. Thật vậy, điều này dường như đã trở thành suy nghĩ đằng sau chiến lược của NATO. Việc tích lũy tài sản trong khu vực và cung cấp vũ khí cho các binh chủng của Ukraine quyết tâm chống lại sự xâm lược của Nga và cản trở tham vọng rộng lớn hơn của ông Putin. Đồng thời, có những nỗ lực ngoại giao đang diễn ra để xác định những triển vọng cho sự tham gia mang tính xây dựng, tôn trọng “lằn ranh đỏ” nhưng cung cấp cơ hội cho việc giảm leo thang.
Triển vọng cho một giải pháp ngoại giao không có vẻ hứa hẹn tại thời điểm này, mặc dù những ý kiến vào thứ Sáu tuần trước rằng ông Putin đã đưa ra quyết định xâm lược đã được Cố vấn an ninh quốc gia White House Jake Sullivan rút lại. Hoa Kỳ và các đồng minh đang khuyên các công dân của họ ngay lập tức rời khỏi khu vực và đang thực hiện các bước để đóng cửa các đại sứ quán của họ ở thủ đô Kyiv của Ukranian trong vòng vài ngày.
Pax Christi Quốc tế đã kêu gọi Đức Thánh Cha Phanxicô can thiệp, đồng thời so sánh tình hình hiện tại với cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba cách đây 60 năm trước, vốn đã đẩy thế giới đến bờ vực của cuộc Chiến tranh hạt nhân. Vào thời điểm đó, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã gửi các Đặc phái viên đến để giao tiếp riêng tư với cả hai bên, và ngài đã đưa ra một lời kêu gọi cộng đồng về trách nhiệm luân lý. Đức Thánh Cha Phanxicô đã thể hiện sự lãnh đạo đối với cuộc khủng hoảng Ukraine bằng cách kêu gọi một giải pháp bất bạo động và đồng thời đặt ra một ngày thế giới cầu nguyện cho Ukraine; Đức Thánh Cha ở một vị thế duy nhất để tiếp tục đối thoại và xây dựng sự tin tưởng giữa tất cả các bên.
Hầu hết người dân Ukraine đều theo Kitô giáo Chính thống, nhưng đất nước này cũng có một nhánh của Giáo hội Công giáo, thực hành nghi lễ Đông phương trong khi trung thành với Đức Giáo hoàng. Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk, người đứng đầu Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine, đã bày tỏ quan điểm rằng một chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng sẽ khôi phục hy vọng cho một giải pháp hòa bình, vì “có một sự đồng thuận ở Ukraine, không chỉ trong số các tín hữu Công giáo mà còn giữa những người không phải là người Công giáo và thậm chí là những người không có đức tin, Đức Thánh Cha Phanxicô là người có thẩm quyền luân lý quan trọng nhất trên thế giới hiện nay”. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã cải thiện quan hệ giữa Vatican và Giáo hội Chính thống Nga, có mối quan hệ chặt chẽ với Điện Kremlin. Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha Phanxicô với Đức Thượng phụ Nga Kirill ở Cuba năm 2016 là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa một vị Giáo hoàng và một tộc Thượng phụ kể từ Kitô giáo chia thành các chi nhánh phía đông và phía Tây vào năm 1054.
Hơn nữa, khái niệm Công giáo về “Chiến tranh chính nghĩa” chỉ có thể là một hệ thống giá trị được chia sẻ quan trọng như là một phần của sự can thiệp mang tính xây dựng của Đức Giáo hoàng. Các chính trị gia lão luyện trong việc tái cấu trúc chủ đích đối với hiệu ứng tu từ, và ngôn ngữ về truyền thống chiến tranh chính nghĩa, vì Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo một cách đúng đắn trong Thông điệp “Fratelli Tutti”, đôi khi có thể được bấu vào nỗ lực ngụy trang những động cơ của một kẻ xâm lược. Nhưng bất kỳ lời kêu gọi nào để từ bỏ truyền thống hoàn toàn (có lẽ bằng sức mạnh hủy diệt của chiến tranh hiện đại) bỏ qua vai trò của nó như một cơ chế để buộc các cường quốc phải giải thích – và chèn vào một quá trình phản ánh nghiêm túc giữa sự thúc đẩy của một nhà lãnh đạo để hành động và sự giải thích về sự thúc đẩy đó vào một quyết định vốn sẽ có những hậu quả, trong nước và quốc tế, không thể bị bỏ dở.
Sự xâm lược là một dấu hiệu của sự bạc nhược, chứ không phải sức mạnh. Các nhà lãnh đạo mạnh mẽ không phải là những kẻ nô lệ của sự sợ hãi, tức giận hoặc bản ngã. Họ cam kết và được thúc đẩy bởi các giá trị chung của văn hóa của họ. Họ dành thời gian để suy xét trước khi thực hiện sự đổ máu và tích lũy cho bất kỳ nỗ lực quân sự nào. Và họ luôn luôn có ý thức về trách nhiệm lịch sử mà họ phải gánh chịu để đưa ra những đánh giá thận trọng vì lợi ích của những người họ lãnh đạo và đại diện cho, và theo đuổi công ích toàn cầu.
Điều quan trọng là tiếp tục tìm kiếm một giải pháp bất bạo động cho cuộc khủng hoảng ở Ukraine và đồng thời cố gắng ngăn chặn cuộc xâm lược. Sự can thiệp vào giờ thứ 11 của Đức Thánh Cha Phanxicô có thể tránh xa hơn nữa sự đau khổ cho người dân Ukraine và những hậu quả toàn cầu thảm khốc. Chúng ta tin rằng đạo đức học về chiến tranh chính nghĩa, và quá trình phản ánh truyền thống về các tiêu chí của mình trước hành động quân sự, vẫn có giá trị như một khuôn khổ đối với trách nhiệm giải trình và những nỗ lực ngoại giao mạnh mẽ, sáng tạo trong việc theo đuổi hòa bình.
Minh Tuệ (theo America)