Phiên họp quốc tế do Đức TGM Jurkovic chủ tọa
Dưới đây là Thông cáo Báo chí do Vatican phát hành liên quan đến sự kiện
QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NƯỚC UỐNG VÀ ĐIỀU KIỆN VỆ SINH AN TOÀN
Ngày 14 tháng 9 năm 2017, Phái đoàn Quan sát viên Thường trực của Toà Thánh tại Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức Quốc tế khác tại Geneva, phái đoàn Quan sát viên Thường trực của Dòng Hiệp Sĩ Malta tại trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Geneva và tổ chức Caritas in Veritate Foundation, đã tổ chức một sự kiện phụ, kết hợp với Kỳ họp lần thứ 36 của Hội đồng Nhân quyền LHQ, với chủ đề: “Quyền con người đối với nước uống và điều kiện vệ sinh an toàn”. Sự kiện này được dựa trên một ấn phẩm về ‘Quyền đối với Nước’ được chuẩn bị bởi tổ chức ‘Caritas in Veritate Foundation’. Đức Hồng y Peter Kodwo Appiah TURKSON, Tổng trưởng Thánh Bộ Cổ võ Sự phát triển con người toàn diện của Tòa Thánh, đã đưa ra bài phát biểu quan trọng. Một số lượng lớn các đoàn đại biểu (trong đó bao gồm: Andorra, Bangladesh, Brazil, Ecuador, Ethiopia, Ghana, Đức, Ý, Maldives, Morocco, Nicaragua, Peru, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ) và các tổ chức phi chính phủ khác đã tham dự hội nghị, do Đức TGM Ivan JURKOVIČ, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức Quốc tế khác tại Geneva, chủ tọa.
Sự kiện này đã được khai mạc bởi Tiến sĩ David NABARRO, cựu Cố vấn đặc biệt cho Tổng thư ký LHQ về Chương trình nghị sự năm 2030 về Phát triển Bền vững và Biến đổi khí hậu, người đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc thực hiện thành công Chương trình Nghị sự năm 2030 bằng cách thừa nhận các giá trị chung của nó, nơi mà tất cả mọi người cần phải có khả năng tiếp cận với các nhu cầu cơ bản. Tiến sĩ Nabarro đã chỉ ra rằng Chương trình nghị sự năm 2030 cần phải tuân theo các nguyên tắc của nó, đó là con người là trọng tâm và hành tinh rất dễ bị tổn thương. Các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) cần phải giống như một tấm tranh thảm không thể phân chia được, và cuối cùng, Tiến sĩ Nabarro cũng đã nhấn mạnh chiến lược “không để ai lại phía sau”, nơi mà tất mọi người đều quan trọng. Tiến sĩ Nabarro sau đó đã khai mạc cuộc tranh luận bằng cách cho biết rằng: “để hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển bền vững [đặc biệt là liên quan đến mục tiêu đối với vấn đề nước uống an toàn cho tất cả mọi người], có một nhu cầu cấp bách để đẩy mạnh hành động trên mọi quy mô”.
Trong bài phát biểu quan trọng của mình, Đức Hồng Y Peter Kodwo Appiah TURKSON đã bày tỏ một ước muốn toàn cầu để chính thức hóa và đồng thời tăng cường việc tiếp cận nước và điều kiện vệ sinh như là một quyền con người. ĐHY Turkson đã chỉ ra rằng “như một điều tốt đẹp của công trình sáng tạo, nước được dành cho cả nhân loại cũng như các cộng đồng của nó”, và cả Giáo hội Công giáo lẫn Cộng đồng Quốc tế đều coi trọng vấn đề cấp bách này trong những thập kỷ qua, đặc biệt là với các cuộc tranh luận liên quan đến cuộc chiến chống nghèo đói và việc bảo tồn cũng như khai thác đối với các hệ sinh thái. Tuy nhiên, bất chấp quá trình đàm phán quốc tế và liên chính phủ kéo dài, Đức Hồng Y Turkson đã chỉ ra rằng “nếu không có các cơ sở vững chắc, các nghị quyết và tuyên bố về các quyền của chúng ta không nhất thiết phải được tôn trọng”. Để đạt được mục đích này, đối với Giáo hội Công giáo, nó đã trở thành điều cực kỳ quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức về tính cơ bản và sự cần thiết không thể thiếu được của nước nhằm “giành thắng lợi trong cuộc tranh luận về quyền được cung cấp nước và điều kiện vệ sinh an toàn trong các tổ chức nhân học của nó”. Do đó, quyền được tiếp cận nước sạch và các điều kiện vệ sinh phải được thừa nhận không chỉ như là một nhu cầu cơ bản của con người mà còn là “một yếu tố quan trọng của tự do” và quyền lợi, như là một lợi ích mà mỗi tổ chức phải thừa nhận việc tiếp cận và cung cấp (“bất kỳ xã hội nào phủ nhận việc tiếp cận với nguồn nước của một số người, chính là đang phản bội lại những nền tảng quý giá nhất của con người”) và, cuối cùng, như là một quyền nhất thiết phải hòa nhập con người với thiên nhiên, xã hội và các hệ sinh thái. Đây chính là điều mà ĐTC Phanxicô gọi là một “nền sinh thái học toàn diện”.
Đối với ông Léo HELLER, Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về Quyền con người đối với Nước uống và Điều kiện vệ sinh an toàn, mối tương quan giữa các Mục tiêu phát triển bền vững và khía cạnh nhân quyền là rất quan trọng; trong quá trình thực hiện, tuy nhiên, lại có những nguy cơ rất cao trong việc đánh mất sự liên kết cơ bản này. Yếu tố nhân quyền cần phải được được hòa nhập rõ ràng hơn vào hệ thống giám sát đối với việc cung cấp việc tiếp cận công bằng về nước và điều kiện vệ sinh. Ông Heller nhấn mạnh rằng quyền được cấp nước là một trong số ít các quyền được nêu rõ trong các Mục tiêu phát triển bền vững. Trên thực tế, hiện nay chúng tôi hỗ trợ đối với sự bất bình đẳng giữa các nhóm người bản địa và các nhóm người không phải là dân bản địa, các khu vực nông thôn và thành thị, vv. Nếu chúng ta tạo ra những khoảng cách giữa Chương trình nghị sự và quyền tiếp kiện nước và điều kiện vệ sinh, chúng tôi sẽ không thể nào “bỏ ai lại phía sau”.
Bà Rose Osinde ALABASTER, Giám đốc Chương trình Waterlex đối với khu vực Châu Phi, đã chỉ ra vai trò của lĩnh vực thương mại quốc tế và trong nước đối với trách nhiệm giải trình liên quan đến nước. Trong bài trình bày của mình, bà Alabaster đã tự hỏi liệu rằng giải pháp đối với tình trạng khan hiếm nước có phải là để hang hóa hóa nước bằng cách tạo ra các thị trường nước, nơi mà tương lai đối với nước có thể được bán như là dầu và gas hay không. Quyền của con người đối với nước đặt con người làm trọng tâm của tất cả mọi nỗ lực nhằm phân phối tài nguyên nước một cách hợp lý, do đó, việc xem “nước không chỉ như là một lợi ích xã hội và văn hoá mà còn là một mặt hàng kinh tế vốn không được dẫn đến thực tế là nước được xem như một mặt hàng được ưu tiên hơn quyền của con người đối với nước”. Về mặt này, các chính phủ đóng một vai trò quan trọng bởi vì họ có nghĩa vụ phải bảo vệ các quyền của con người trước các chính sách kinh tế và các hiệp ước thương mại quốc tế cũng như đảm bảo việc không phân biệt đối xử trong việc tiếp cận với nó. Cuối cùng, khả năng chi trả được thể hiện qua lăng kính nhân quyền, lập luận rằng ở cấp độ tiếp cận an ninh, nước hiếm khi được định giá theo cách phản ánh cung và cầu, do đó các thủ tục tư nhân cần phải được minh bạch, và chúng cần phải được thực hiện theo cách cho phép sự tham gia của các cá nhân.
Ông Denys NEYMON, Giám đốc điều hành Tập đoàn Cơ sở Hạ tầng Suez, đã trình bày quan điểm của lĩnh vực tư nhân đối với cuộc thảo luận. Ông chủ yếu phác thảo sơ bộ số liệu về tình hình đáng báo động về việc thiếu nước ở một số khu vực, đồng thời cho biết rằng hiện nay cứ 5 trong 10 người trên toàn thế giới không có đủ nước uống và điều kiện vệ sinh an toàn. Về mặt này, lĩnh vực tư nhân đã hạn chế không gian hành động, bởi vì “vấn đề liên quan đến nước chính là một vấn đề chính trị, bởi nó liên quan đến các thành phố và đời sống xã hội”. Với quá nhiều những phương tiện đối với các mục đích hạn hẹp, các công ty tư nhân đã có những tiến bộ đáng kể trong 15 năm qua, và đã có những đóng góp to lớn đặc biệt cho việc nghiên cứu và đổi mới trong lĩnh vực xử lý nước, nhờ các chuyên gia giỏi, những người có khả năng để đào tạo và truyền đạt kiến thức cho những người khác. Hơn nữa, ông Neymon cũng nhấn mạnh rằng khi các chính phủ có ít các nguồn lực tài chính, lĩnh vực tư nhân có thể mang lại một giải pháp ngắn hạn, thậm chí ngay cả khi những thách thức ở các nước nghèo còn cao.
Bà Dina IONESCO, người đứng đầu Bộ phận Di dân, Môi trường và Biến đổi Khí hậu và đồng thời cũng là đồng tác giả của tập Bản đồ về Di cư liên quan đến vấn đề Môi trường thuộc Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), đã tập trung vào việc giải quyết mối quan hệ phức tạp giữa vấn đề di dân, môi trường và biến đổi khí hậu từ quan điểm sẵn có nước ngọt. Trong hơn 10 năm qua, đã có những tiến bộ đáng kể về nghiên cứu, chính sách và hành động nhằm nâng cao nhận thức đối với các động lực môi trường trong các chiến lược di cư cũng như nâng cao hiểu biết về tác động của sự di chuyển của con người đối với môi trường. Tác động của việc biến đổi khí hậu cần được xem xét đầy đủ khi nói về những người di cư và nước, bà Ionesco bày tỏ hy vọng rằng Hiệp ước Toàn cầu về Di dân (GCM) sẽ thừa nhận cách đầy đủ tầm quan trọng của các động lực môi trường và đặc biệt là sự sẵn có của nước ngọt và và việc tiếp cận như là một mối bận tâm về vấn đề di dân.
Bà Maria Amparo ALONSO ESCOBAR, Trưởng Phái đoàn Caritas Internationalis tại Liên Hợp Quốc tại Geneva đã tập trung vào sự tham gia của tổ chức Caritas Internationalis trong lĩnh vực nước và điều kiện vệ sinh như là một phương tiện để thúc đẩy việc phát triển con người toàn diện. “Tại mỗi lục địa, các tổ chức Caritas đã thực hiện các dự án nhằm cải thiện việc tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương” và đã đóng góp cho ấn bản ‘Caritas in Veritate’ với các nghiên cứu điển hình từ Châu Phi (được thực hiện bởi Caritas Malawi, Senegal và Burkina Faso) và từ Mỹ Latinh (được thực hiện bởi REPAM, Red Ecclesial Panamazonica). Các ví dụ điển hình này đã làm nổi bật tính dễ tổn thương của việc hưởng thụ quyền sử dụng nước liên quan đến việc phân bổ đất đai không công bằng, minh hoạ những thách thức do các điều kiện tự nhiên toàn cầu gây ra, áp lực về nhân khẩu học đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên dễ bị tổn thương và mức độ bao phủ của các dịch vụ cung cấp nước hạn chế. Ẩn ý của tổ chức Caritas đã minh hoạ tầm quan trọng của việc đạt được một tác động tích cực, và đồng thời đưa ra các khuyến nghị đối với các chính phủ và cơ chế Liên Hiệp Quốc nhằm chấm dứt những tình huống kịch tính này.
Minh Tuệ chuyển ngữ