Covid-19: Thông qua một thảm họa chung, chúng ta tái khám phá vấn đề công ích

22F86CEB-81C6-4B6D-AF62-EF90378B6E5B

Đức Thánh Cha Phanxicô chắc chắn về điều này và đang lặp lại điều đó với tất cả mọi người: chúng ta sẽ thoát ra để trở nên tốt hơn hoặc xấu đi sau đại dịch. Cuộc khủng hoảng toàn cầu đòi hỏi rằng các thông số về sự chung sống của con người cần phải được tái xem xét qua lăng kính của tinh thần liên đới. Dựa trên ý tưởng nền tảng này, “Covid-19: Xây dựng một tương lai lành mạnh hơn” đã được tạo ra với sự cộng tác của Thánh Bộ Cổ võ sự Phát triển Con người Toàn diện, nhằm đưa ra một tầm nhìn có thể dẫn đến sự khởi đầu của một tinh thần huynh đệ mới hậu đại dịch.

Vấn đề chăm sóc y tế, giáo dục, an ninh – đây là những nền tảng của bất kỳ quốc gia nào, vốn không nên bị trục lợi từ đó. Nhà kinh tế học Luigino Bruni, một trong những chuyên gia được Đức Giáo hoàng Phanxicô kêu gọi trở thành thành viên của Ủy ban Covid-19 của Vatican, tin chắc rằng bài học về đại dịch sẽ giúp chúng ta tái khám phá sự thật sâu sắc liên quan đến cụm từ “công ích”. Điều này là như vậy bởi vì, như Ngài tin rằng, mọi thứ về cơ bản đều là vì công ích: hoạt động chính trị theo đúng nghĩa của nó, nền kinh tế hướng đến con người trước khi tìm cách tìm kiếm lợi nhuận. Trong tầm nhìn toàn cầu mới vốn có thể ra đời sau đại dịch này, Giáo hội, theo Giáo sư Bruni, phải tự biến mình trở thành “người bảo đảm” di sản tập thể này, trong chừng mực nó nằm ngoài luận lý học về vấn đề thương mại. Hy vọng của Giáo sư Bruni đó là trải nghiệm này, bị thay đổi bởi một loại virus không có ranh giới, sẽ giúp chúng ta không quên “tầm quan trọng của sự hợp tác của mọi người và tinh thần liên đới toàn cầu”.

Ông là một thành viên của Ủy ban COVID 19 của Vatican, cơ chế phản ứng của Đức Giáo hoàng Phanxicô đối với một loại vi rút chưa từng tồn tại. Cá nhân ông hy vọng sẽ học được điều gì từ kinh nghiệm này? Theo ông, xã hội nói chung có thể được truyền cảm hứng từ công việc của Ủy ban theo cách thức nào?

Điều quan trọng nhất tôi học được từ kinh nghiệm này đó là tầm quan trọng của nguyên tắc phòng ngừa vì thiện ích chung. Không tồn tại hầu hết trong giai đoạn đầu của dịch bệnh, nguyên tắc phòng ngừa, một trong những trụ cột trong Học thuyết Xã hội của Giáo hội, cho chúng ta biết một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên tắc phòng ngừa tồn tại ở cấp độ cá nhân (đủ để nghĩ đến các công ty bảo hiểm dường như đang chiếm lĩnh thế giới), nhưng hoàn toàn không hiện hữu ở cấp độ tập thể, và do đó khiến xã hội thế kỷ 21 trở nên cực kỳ dễ bị tổn thương. Đây là lý do tại sao những quốc gia duy trì được một chút trạng thái phúc lợi đã chứng tỏ mình mạnh hơn rất nhiều so với những quốc gia bị thị trường chi phối hoàn toàn. Và kế đến là công ích: bởi vì thảm họa chung đã tiết lộ cho chúng ta biết công ích là gì, đại dịch đã buộc chúng ta phải thấy rằng công ích đòi hỏi cộng đồng, chứ không chỉ thị trường. Vấn đề y tế, sự an toàn và giáo dục không thể bị phó mặc cho trò chơi lợi nhuận.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu Ủy ban COVID 19 chuẩn bị cho tương lai thay vì chuẩn bị cho điều này. Vai trò của Giáo hội Công giáo với tư cách là một tổ chức trong nỗ lực này là gì?

Giáo hội Công giáo là một trong số ít (nếu không phải là duy nhất) bảo đảm và bảo vệ thiện ích chung toàn cầu. Không màng tư lợi, Giáo hội Công giáo có thể theo đuổi thiện ích chung của tất cả mọi người. Chính vì điều này mà Giáo hội có một thính quan rộng lớn. Vì lý do tương tự, Giáo hội có trách nhiệm thực hiện điều đó trên quy mô toàn cầu.

Ông có thể rút ra được bài học cá nhân nào (nếu có) từ trải nghiệm của đại dịch? Ông hy vọng sẽ chứng kiến những thay đổi cụ thể nào sau cuộc khủng hoảng này cả trên phương diện cá nhân và toàn cầu?

Bài học đầu tiên là giá trị của hàng hóa quan hệ. Không thể trao cho nhau những cái ôm trong những khoảng thời gian này, tôi đã tái khám phá giá trị của một cái ôm và sự tiếp xúc. Thứ hai, chúng ta có thể và cần phải có nhiều cuộc họp trực tuyến và phải làm việc từ xa, nhưng đối với những quyết định quan trọng và những cuộc họp mang tính quyết định, internet không đủ đáp ứng. Sự hiện diện về thể lý là cần thiết. Vì vậy, sự bùng nổ các phương pháp trực tuyến đang khiến chúng ta khám phá ra tầm quan trọng của việc tiếp xúc bằng xương bằng thịt và sự thông minh của cơ thể con người. Tôi hy vọng rằng chúng ta không quên những bài học kinh nghiệm trong những tháng này (bởi vì con người quên rất nhanh), đặc biệt là tầm quan trọng của chính trị như chúng ta đã tái khám phá trong những tháng này (như nghệ thuật của công ích khi chống lại một thảm họa chung), và chúng ta không quên tầm quan trọng của sự hợp tác của mọi người cũng như tinh thần liên đới toàn cầu.

Việc chuẩn bị cho thế giới hậu Covid bao gồm việc hình thành các thế hệ tương lai, những người sẽ bị buộc phải đưa ra các quyết định tạo ra những đường hướng mới. Theo nghĩa này, liệu giáo dục có thể bị coi chỉ như là một “phí tổn” cần giảm thiểu, ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng?

 Giáo dục, trước hết là của trẻ em và thanh thiếu niên, không phải là một “phí tổn”… Nó là một khoản đầu tư tập thể với tỷ suất lợi nhuận xã hội cao nhất. Tôi hy vọng rằng ở những quốc gia nơi mà các trường học vẫn tiếp tục đóng cửa, một ngày lễ quốc gia sẽ được chỉ định khi các trường học mở cửa trở lại. Dân chủ bắt đầu từ bàn học và ở đó nó được sinh ra một lần nữa trong mỗi thế hệ. Di sản đầu tiên (patres munus) mà chúng ta truyền lại qua nhiều thế hệ đó chính là giáo dục.

Hàng chục triệu trẻ em trên thế giới không được tiếp cận với giáo dục. Liệu có thể bỏ qua điều 26 của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, trong đó khẳng định rằng mọi người đều có quyền được giáo dục miễn phí và bắt buộc, ít nhất là về giáo dục tiểu học?

Rõ ràng không được bỏ qua điều này, nhưng chúng ta không thể yêu cầu các quốc gia phải gánh chịu hoàn toàn chi phí giáo dục mà không có đủ các nguồn lực. Chúng ta phải nhanh chóng tạo sức sống cho một mối quan hệ hợp tác quốc tế mới theo khẩu hiệu: “giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên chính là thiện ích chung toàn cầu”, trong đó các quốc gia có nhiều nguồn lực giúp đỡ những quốc gia có ít nguồn lực hơn để quyền được giáo dục miễn phí trở thành hiện thực. Đại dịch này đã cho chúng ta thấy rằng thế giới là một cộng đồng rộng lớn. Chúng ta phải chuyển hóa thảm họa chung này trở thành hàng hóa công toàn cầu mới.

Ngân sách giáo dục đôi khi bị cắt giảm mạnh ngay cả ở các nước giàu. Liệu có thể thực sự có mong muốn không đầu tư vào thế hệ tương lai?

Nếu luận lý học kinh tế tiếp quản, những lý luận như thế này sẽ tăng lên: “Tại sao tôi phải làm điều gì đó cho các thế hệ tương lai? Họ đã làm gì cho tôi?”. Nếu như ‘ut des’ (Tôi sẽ cho cái gì đó chỉ khi tôi nhận được thứ gì đó từ nó), câu thần chú thương hiệu, trở thành logic mới của các quốc gia, chúng ta sẽ luôn đầu tư ít hơn vào giáo dục và chúng ta sẽ luôn tạo ra nhiều món nợ hơn mà trẻ em ngày nay sẽ phải trả hết. Một lần nữa, chúng ta phải trở nên quảng đại hơn và trau dồi những đức tính phi kinh tế như lòng nhân ái, hiền lành và rộng lượng.

Mặc dù gặp khó khăn về kinh tế, nhưng Giáo hội Công giáo vẫn đang ở trên tuyến đầu cung cấp giáo dục cho những người nghèo nhất. Như chúng ta đã chứng kiến trong trận đại dịch này, các biện pháp cách ly xã hội đã có những tác động đáng kể đến các trường học Công giáo. Nhưng Giáo Hội tiếp tục chào đón tất cả mọi người, không có sự phân biệt dựa trên giáo phái, tạo không gian cho sự gặp gỡ và đối thoại. Khía cạnh này quan trọng thế nào?

Giáo hội luôn là một tổ chức vì công ích. Dụ ngôn Tin Mừng của Thánh Luca không cho chúng ta biết về đức tin của người đàn ông đang sống dở chết dở mà người Samari nhân hậu đã giúp đỡ. Chính trong những cuộc khủng hoảng khốc liệt nhất, Giáo hội khám tái khám phá ơn gọi của mình với tư cách là ‘Mater et magister’ (Mẹ và Thầy), sự quý trọng đối với những người ngoài Kitô giáo tăng lên đối với Giáo hội, đại dương tập hợp mọi thứ trong đó, rồi ban phát mọi thứ cho mọi người, trước hết là những người nghèo nhất. Sau cùng, Giáo hội luôn nhận thức rằng chỉ số của mọi công ích là tình trạng của những người nghèo nhất.

Giáo dục về tôn giáo và tôn giáo có thể đóng góp gì cho những người trẻ tuổi, đặc biệt là trong một thế giới ngày càng bị thúc đẩy bởi sự chia rẽ và thúc đẩy sự ràng buộc của sự sợ hãi và căng thẳng?

Điều đó phụ thuộc vào cách chúng được giáo dục. Chiều kích luân lý tồn tại trong mọi tôn giáo là không đủ. Giáo lý chính yếu mà các tôn giáo có thể đưa ra ngày nay liên quan đến đời sống nội tâm và tâm linh, bởi vì thế hệ của chúng ta, trong khoảng thời gian chỉ vài thập kỷ, đã phung phí một di sản hàng nghìn năm tuổi chứa đựng trí tuệ cổ xưa và lòng đạo đức bình dân. Các tôn giáo trên thế giới phải giúp giới trẻ và mọi người viết lại “ngữ pháp” mới về đời sống nội tâm. Nếu họ không làm điều đó, sự trầm cảm chán nản sẽ trở thành bệnh dịch của thế kỷ 21.

Minh Tuệ (theo Vatican News)

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube

Liên kết