Đức Giêsu là cánh cửa duy nhất mở ra để người ta đến với Thiên Chúa.
Thời Đức Giêsu, rong ruổi trong những vùng hoang vắng, những mục tử phải tìm ra những đồng cỏ nuôi chiên và không ngừng chăm sóc bảo vệ chiên của mình. Chiên và mục tử thường xuyên sống chung, nên hiểu nhau, biết nhau và tạo được mối thân tình với nhau. Các mục tử thường đặt tên cho những con chiên họ yêu quý, quan tâm thường xuyên đến từng con, nên chiên quý anh, nghe lời anh chứ không nghe theo người lạ.
Các mục tử thường quy tụ các đàn vật của họ vào một ràn riêng, hoặc vào chung một ràn mỗi tối. Ràn là nơi che chắn an toàn, bảo đảm đàn vật khỏi mọi nỗi hiểm nguy. Họ cắt cử một người bảo vệ canh cửa. Mỗi sáng, khi một mục tử lên tiếng với người giữ cửa, đàn chiên của anh ta sẽ nhận ra tiếng anh và nghe theo lời hướng dẫn của anh, nhờ đó anh dễ dàng tách chiên của mình ra khỏi đàn.
Trong bài ẩn dụ này, Đức Giêsu vừa nhấn đến mối tương quan mật thiết giữa các con chiên và mục tử, vừa nhấn đến tầm quan trọng giữa những mục tử và người giữ cửa.
Cách duy nhất để đến với chiên, là phải đi qua cửa, được người giữ cửa mở ra. Chính cái cửa xác định ai là kẻ trộm, kẻ cướp, và ai là mục tử. Đức Giêsu xưng mình là “Cửa ràn chiên” là thế. Ai không qua cửa mà vào, nhưng lại trèo qua lối khác mà vào, tức là không đến với đàn chiên cách chính thức, kẻ ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.
Người Do thái hiểu rằng, khi một người có thể đi ra đi vào nhà mà không sợ hãi, lo âu đồng nghĩa với đời sống được an toàn, luật lệ đang duy trì trật tự, xã hội được an ninh, người lãnh đạo đất nước anh minh và Thiên Chúa yêu thương dõi theo họ lúc ra vào, lui tới (Tv 121,8).
Nếu người ta nhờ Đức Giêsu mà biết được Thiên Chúa chân thật và biết mình đang ở trong vòng tay yêu thương của Người là thế nào, người đó sẽ có cảm nhận về sự an toàn và đảm bảo, mọi âu lo sợ hãi đều tan biến.
Kể câu chuyện ẩn dụ này, tâm trí Đức Giêsu hướng đến đoàn chiên khốn khổ là dân của Thiên Chúa đang bị cai trị bởi những mục tử giả là các nhà lãnh đạo dân, những kẻ giữ trọng trách coi sóc đoàn chiên, như người giữ cửa, nhưng đã xử với đàn chiên như những kẻ trộm cướp, là giết hại và phá hủy. Họ chỉ lo cho bản thân, lo kiếm lợi lộc, chạy theo bạo quyền, mà bỏ mặc dân Chúa lầm than, không thực hành theo đường lối của Thiên Chúa, cũng không theo lời dạy của Người.
Khi Đức Giêsu bảo những kẻ đến trước đều là quân trộm cướp, không có ý nói đến các ngôn sứ và những người được Chúa sai đến, nhưng Người muốn ám chỉ đến những kẻ phiêu lưu lao mình vào chính trị và chủ trương đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực để đoạt quyền hành, cổ xúy hận thù, như vẫn thường xảy ra tại Paléttin.
Tuyên bố mình là cửa, Đức Giêsu cho thấy Người đang thực hiện đúng chức năng bảo vệ đoàn chiên, không những thế, Người còn phân biệt được và giúp mọi người nhận chân được ai là mục tử tốt, kẻ nào là trộm cướp.
Người không loại trừ ai khỏi ơn cứu độ: Ai qua cửa mà vào, ai được Thiên Chúa sai đến, ai nắm giáo huấn của Người, ai có tương quan tốt đẹp với chiên, người ấy là mục tử đích thật.
Đức Giêsu còn là cửa sinh tử, là cửa dẫn đến ơn cứu độ, đến đồng cỏ sự sống, sự sống viên mãn. Ai qua thì được cứu, vì Người đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Hôm nay chúng ta đang đi theo ai? phục vụ ai và vào cửa nào? Làm sao nhận ra tiếng mục tử mà đi theo, làm sao mục tử biết tên chiên để gọi, nhận ra chiên của mình mà chăn dắt?
Jos Ngô Văn Kha CSsR