Vì ánh sáng đức tin mà “vị khách đồng hành” đã rọi sáng vào tâm hồn tăm tối của họ, và qua cử chỉ Bẻ Bánh, họ nhận ra Đức Kitô Phục sinh
Không dễ để hiểu và chấp nhận sự phục sinh của Đức Giêsu; không dễ để tin và trở nên chứng nhân cho Đấng Phục Sinh; không dễ để xác tín và và nêu ra những chứng cứ chứng minh về sự Hiện diện của Đấng Đang Sống.
Đức Giêsu, Đấng Kitô đã chết. Chết là hết. Không có gì có thể đảo ngược lại tình thế. Thấy hay không thấy xác Đức Giêsu trong mồ, hoặc đã bị lấy đi, điều đó không còn quan trọng. Không còn gì quan trọng có thể níu những bước chân nặng nề bởi thất vọng, tàn nhẫn đạp lên trên những hoài bão, những mong ước của chính mình.
Những cách giải thích phiến diện, những lý do chủ quan đưa ra gây nên một cuộc tranh luận gay gắt giữa hai môn đệ trên đường đi Emmau đến nỗi, họ không biết có sự hiện diện của một khách bộ hành cùng đi với họ. Mắt họ còn bị ngăn cản không biết đó là Đức Giêsu, và họ càng ngạc nhiên vì vị khách này không hề biết chuyện gì đã xảy ra trong thành Giêrusalem mấy bữa nay.
Điều gì khiến mắt họ bị ngăn cản không nhận ra Đức Giêsu? Đó là những kỳ vọng đầy mùi vị thế tục họ đặt nơi Người; đó là vì cặp mắt trần của thân xác không thể thấy được Đấng Phục sinh, hơn nữa, vì họ chưa có đức tin, chưa biết đức tin là ân ban, chứ không phải vì kiểm nghiệm được bằng các giác quan.
Họ theo Chúa vì mục đích riêng, mục đích trần tục; họ chỉ nhìn vào những khát khao của mình, chỉ nghe những tiếng ồn ào, xôn xao, thôi thúc của những vọng tưởng, và tất cả tan tành trước cái chết của Đức Giêsu, Đấng mà họ chỉ coi như là một ngôn sứ có quyền năng của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lại không cứu Người khỏi chết. Sự thất vọng gây nên những nỗi đau còn đau đớn hơn những thương tích Đức Giêsu phải chịu trong cuộc khổ nạn.
Họ biết xác Chúa không còn trong mồ. Họ chẳng cần tìm hiểu vì sao, chẳng còn gì lưu luyến…
Không gì có thể ngăn những bước chân đã thoái lui, không ai có thể dừng bước chân của họ, nếu Đấng Phục sinh không đến bên cạnh và mở lời để họ trút ra những gì làm mắt họ bị ngăn cản, trí họ như bùn đất và tâm hồn như bị đóng băng, thay vào đó là lời các ngôn sứ, là những gì Kinh thánh đã chép về Đức Kitô, Người phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang.
Đấng Phục sinh đã giải thích Kinh thánh cho họ hiểu. Sự giải thích chóng vánh nhưng thiết thực, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt Kinh thánh, đi vào trọng tâm đã làm mắt họ sáng ra, không phải đôi mắt trần, mà là con mắt đức tin, đã khiến lòng họ bừng cháy, không phải là những khát vọng trần tục, mà là niềm hy vọng của cuộc sống mới.
Niềm vui và sự an bình nội tâm mà vị khách lạ đem đến khi bóc tách những suy nghĩ phàm trần bằng việc cắt nghĩa Kinh thánh khiến họ bị thu hút. Họ khẩn khoản nài xin Người ở lại với họ vì trời đã tối, hay nói khác đi, vì ánh sáng đức tin mà vị khách đồng hành đã thắp lên, đã rọi sáng vào tâm hồn tăm tối của họ, khiến họ muốn ở mãi với Người.
Trong bữa ăn tối, Đức Giêsu như chủ tọa, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Mắt họ được bừng mở và họ nhận ra Người, vị Thầy đã có những cử chỉ ấy khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Không thể lẫn lộn với bất cứ ai khác được.
Vị khách đã đồng hành và đang đồng bàn với họ là Đức Giêsu, Đấng Phục sinh. Người ta không thể nhìn thấy và nhận ra được Đức Giêsu Phục Sinh bằng cặp mắt nhân loại, mà chỉ nhận ra Đức Giêsu hiện diện với cặp mắt đức tin được Chúa ban như hoa trái của sự Phục sinh.
Họ là những người đầu tiên được nhìn thấy Đấng Phục Sinh đang sống, hiện diện với họ. Nhưng ngay khi đó, Đức Giêsu biến mất. Từ đây, với kinh nghiệm quý giá này, họ biết chắc Người luôn ở với họ, với con người qua Lời Chúa trong Kinh thánh, qua việc Bẻ Bánh trong cộng đoàn những người tin, chứ không còn qua hình dạng theo kiểu loài người nữa.
Như thế, Bữa Tiệc Ly cuối cùng, với tất cả ý nghĩa của nó, lại trở nên sống động trong tâm khảm của cộng đoàn, là chứng tá của việc Đức Giêsu đang sống, đang hiện diện và đang cử hành.
Trở lại Giêrusalem, họ gặp các tông đồ để chia sẻ niềm vui, để làm chứng tá cho Đấng Phục Sinh hiện ra với họ, và chính họ cũng được các tông đồ củng cố cho chứng tá của mình khi thuật lại việc Đấng Phục Sinh hiên ra cho ông Simon.
Như thế đức tin Đức Giêsu là Đức Kitô chính là ơn huệ của sự Phục sinh. Điều mà Người, trong suốt thời gian còn hoạt động , không sao làm cho các môn đệ hiểu rằng Kinh Thánh quy hướng về Người và ơn Cứu Chuộc của Người qua cuộc khổ nạn, sự chết và phục sinh.
Như thế, người ta chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khởi đi từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu, như chính Người đã giải thích.
Jos Ngô Văn Kha CSsR