Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, được “ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ mọi công trình Thiên Chúa sáng tạo” (Tv 8,6t), nhưng hình ảnh “lộng lẫy” ấy trở nên méo mó, dị dạng bởi tội, không chỉ bề ngoài, mà còn ở bề sâu trong tâm hồn, nơi phẩm giá cao trọng bị hủy hoại thành hèn kém. Đôi lúc người ta thoáng thấy “vẻ đẹp nguyên sơ” ấy qua đức hạnh, qua những việc tốt lành, nhất là họ bị thu hút bởi vẻ ngây thơ trong trắng, “vô tội” của trẻ thơ.
Làm người, Con Thiên Chúa đã nên giống hệt loài người, trừ tội (x.1Pr 2,22), thế nên Người quả là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (x.Cl 1,15), “phản ánh vẻ huy hoàng, là ấn tượng của bản thể Thiên Chúa” (x.Dt 1,2), như lời Người quả quyết “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt Đức Giêsu thế nào, các môn đệ đã quá quen, nhưng hôm nay họ mới thấy được thần tính Thiên Chúa tỏa ánh quang rực rỡ chói lọi như mặt trời trên khuôn mặt ấy. Và có cả Ông Môsê, Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Ngây ngất, họ chỉ muốn tận hưởng mãi khung cảnh thần linh này. Đây không phải là hoang tưởng tập thể, họ đã ngã sấp mặt xuống đất vì kinh hoàng khi nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa từ trong đám mây sáng chói, vừa chứng thực về thần tính của Đức Giêsu “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”, vừa mời gọi: “các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
Phêrô không quên được trải nghiệm thiêng liêng này: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người… Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra
khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Sau khi tỏ bày vinh quang thần tính của Thiên Chúa nơi thân xác loài người, Ðức Giêsu trở về trong thân phận người thường, một thân phận mà Người phải che dấu, phải trút bỏ vẻ huy hoàng ấy, để thực thi ý định cứu chuộc loài người của Chúa Cha và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn là, chấp nhận cuộc khổ nạn, chịu đóng đinh và chịu chết trước mắt mọi người như một tội nhân (x Pl 2, 6-11).
Các môn đệ sẽ thấy Đức Giêsu chết như một tử tội, nhưng vẫn trong tư cách là Con Thiên Chúa, vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương, đã chết thay cho con người, để đem ơn cứu rỗi cho con người (x.Ga 3,16). Và cũng chính trong thân xác bị đóng đinh và chịu chết đó, sẽ trỗi dậy đi vào trong vinh quang bất tận của Thiên Chúa. Nếu Biến hình là một sự bừng sáng ngắn ngủi, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến, thì khi Phục sinh, thân xác, nhân tính của Ðức Giêsu sẽ được biến đổi trọn vẹn trong vinh quang viên mãn của Thiên Chúa.
Còn một khoảng cách dài, trải qua nhiều biến cố, các môn đệ mới lãnh hội được điều này, khi đích thân Đức Giêsu, Đấng Phục sinh, hiện ra và dạy dỗ họ mọi sự, nhất là việc Người phải trải qua cái chết thập giá mới vào được vinh quang (Lc 24,26). Bấy giờ họ mới thấu hiểu mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu và những lời dạy trước kia của Người là muốn họ trở nên ánh sáng cho trần gian (Mt 5,14), phải vâng lời Thiên Chúa thì mới được vào được Nước Thiên Chúa (Mt 7,21), mới trở nên thân thuộc của Đức Giêsu (Mt 12,50).
Người Kitô hữu cũng được mặc lấy Chúa Kitô, được đưa vào miền ánh sáng diệu huyền (1Pr 2,9), và đời sống đức tin là một đời sống của những người có một lương tâm trong trắng (1Pr 3,21) để làm chứng cho Ơn Cứu Chuộc của Chúa.
Mùa chay vang dội lời mời gọi mỗi người từ bỏ cái tôi xấu xa, ích kỷ, thanh luyện bản thân và cải hóa đời sống để cho ánh vinh quang của Chúa chiếu rạng, để người ta thấy được trên khuôn mặt người tín hữu, khuôn mặt ngời sáng của Ðức Giêsu,
Mùa chay cũng khích lệ những ai đang vác thập giá nặng nề của thân phận làm người, của tội lỗi, biết vượt qua nỗi sợ, trỗi dậy hướng nhìn lên Đấng chịu đâm thâu, mà làm cho khuôn mặt khổ đau vì gánh nặng vất vả của mình có những đường nét sáng lạn của sự vâng phục thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu.
Nhờ sự sám hối trở về của mỗi người, Hội thánh sẽ mang một khuôn mặt mới, đầy tràn đức tin và niềm hy vọng, được bừng sáng bởi Ơn tha thứ Cứu Chuộc của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
Jos. Ngô Văn Kha, C.Ss.R.