Chúng ta đều biết Đức Thánh Cha Phanxicô công bố triệu tập đại hội chung ngoại thường lần thứ ba của Thượng Hội đồng Giám mục tại Roma từ ngày 5 đến ngày 19 tháng 10 năm 2014, về chủ đề “Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng” (Thượng Hội đồng 2014). Khởi đi từ cuộc họp các Giám mục Châu Mỹ La tinh tại Medellin và Puebla, các nghị phụ thường sử dụng phương pháp “cây nhà lá vườn” Xem – Xét – Làm của Hội Thánh để bàn thảo, làm việc với nhau cũng như và soạn thảo văn kiện của Thượng hội đồng.
Phương pháp này được đề xuất bởi vị Hồng y Cardjin người Bỉ, người sáng lập Phong trào Thanh Lao Công. Dưới đây, sau khi tìm hiểu về phương pháp Xem – Xét – Làm, ta sẽ xem Thượng Hội đồng 2014 đã áp dụng phương pháp này như thế nào trong soạn thảo Tài liệu Chuẩn bị.
Phương pháp Xem – Xét – Làm
Năm 1959, trong một dịp yết kiến đức giáo hoàng Gioan XXII, linh mục Cardijn trình bày với ngài rằng thế giới ngày nay đã thay đổi và đề nghị đức giáo hoàng viết một thông điệp nhân dịp kỷ niệm 70 năm Thông điệp Rerum Novarum ra đời. Đức giáo hoàng bảo Cardijn hãy gửi cho một văn bản về đề xuất đó.
14 tháng sau, vào ngày 15 tháng 5 năm 1961, Cardijn rất ngạc nhiên thấy đức giáo hoàng Gioan ban hành Thông điệp Mater et Magistra chính thức đưa phương pháp Xem – Xét – Làm vào trong Giáo huấn Xã hội Công giáo và kêu gọi các tín hữu giáo dân hãy học hỏi và thực hành Giáo huấn Xã hội theo phương pháp này. Đức Gioan XXIII khẳng định quy trình Xem, Xét, Làm là một phương thức đọc và ứng đáp “các dấu chỉ thời đại”.
“Có ba giai đoạn thông thường ta nên theo khi thực hành các nguyên tắc xã hội. Trước tiên, ta xem lại tình huống cụ thể; thứ hai, ta hình thành một sự phán đoán về tình huống đó dưới ánh sáng của chính các nguyên tắc này; thứ ba, ta quyết định xem các tình huống nào có thể và nên được thực hiện để áp dụng các nguyên tắc này. Đây là ba giai đoạn thường được diễn tả trong ba thuật ngữ: xem, xét, làm” (326).
Hội đồng Công bằng Xã hội Công giáo Úc giải thích về quy trình của phương pháp này như sau (phần dưới đây, chúng tôi trích từ bài “Đọc các dấu chỉ của thời đại”, bản dịch của Cao Nguyên trên mạng www.ghxhcg.com):
“1. Xem
• Xem, nghe, và trải nghiệm thực tại được sống của các cá nhân và cộng đồng.
• Đặt tên cho những gì đang diễn ra khiến bạn lưu tâm.
• Cẩn thận kiểm tra các dữ liệu hàng đầu của tình huống. Những người trong tình huống này đang làm gì, cảm thấy gì, và nói gì? Điều gì đang xẩy ra với họ và bạn/họ ứng phó như thế nào?
2. Xét
Từ ‘xét’ được sử dụng ở đây theo nghĩa tích cực – phân tích tình huống và thực hiện một xét đoán dựa trên thông tin thu thập được về tình huống đó.
Điều này gồm hai phần chính yếu:
i. phân tích xã hội.
ii. suy tư thần học.
3. Làm
Hoạch định và thực hiện các hành động nhằm mục đích chuyển đổi, cải tạo các cấu trúc xã hội bất công, gây đau khổ”.
Trở về với chủ đề Thượng Hội đồng Giám mục sẽ họp tại Roma vào tháng 10 năm 2014 về đề tài “Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng”. Dựa vào Tài liệu Chuẩn bị (mà chúng tôi sẽ trích dẫn rất nhiều dưới đây, các tiêu đề phân tích xã hội và suy tư thần học do chúng tôi đặt, không có trong Tài liệu Chuẩn bị), ta sẽ đi sâu vào việc tìm hiểu Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục đã soạn thảo phần Xét (gồm phân tích xã hội và suy tư thần học) như thế nào.
Đức hồng y Cardijn và Phương pháp Xem, Xét, Làm
Khi nói về phương pháp xem, xét, làm, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lôi kéo sự chú ý đến tư tưởng của vị Hồng y người Bỉ Joseph Cardijn (1882–1967), khi còn là một linh mục đã thi hành công tác mục vụ cho các công nhân nghèo và đã thành lập Hội Thanh Lao Công. Hồng y Cardijn, một trong những Nghị phụ của Công đồng Vatican II, đã phát biểu về văn kiện sẽ được ban hành với tên gọi Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo. Tự do tôn giáo, ngài nói, “tự bản thân nó không phải một cứu cánh. Tự do tôn giáo là một phương tiện cần thiết để giáo dục về tự do theo ý nghĩa đầy đủ nhất, điều này dẫn đến tự do nội tâm.”
Tự do nội tâm này, ngay cả nếu nó tồn tại trong mầm mống như là một quà tự nhiên trong mọi tạo vật con người, đòi hỏi một sự giáo dục lâu dài có thể được tóm lược trong ba từ: xem, xét, làm. (*)
Quy trình chu kỳ mục vụ đã trở thành một phương thức đầy tiềm lực về cách đọc các dấu chỉ thời đại và tham gia hành động vì công lý theo một phương thức có khả năng làm biến đổi.
Phân tích xã hội về gia đình hiện đại
Trong khi mời các tín hữu giúp nhìn xem các vấn đề về gia đình mà Giáo hội đang phải đối mặt, Vatican nhận định:
“Ngày nay, có những hoàn cảnh chưa từng có cho đến những năm cuối này, từ tình trạng ngày càng phổ biến các cặp sống chung tự do không ràng buộc bởi kết hôn, và thậm chí có khi loại trừ cả ý tưởng hôn nhân, cho đến tình trạng sống chung giữa những người đồng tính, thường được phép nhận con nuôi.
Trong vô số những hoàn cảnh mới đòi hỏi Hội Thánh cần quan tâm và dấn thân mục vụ, có thể kể ra những hoàn cảnh đáng lưu ý nhất sau đây:
• hôn nhân hỗn hợp hay khác tôn giáo;
• gia đình chỉ với một mẹ hoặc một cha;
• đa thê;
• các cuộc hôn nhân được sắp đặt với vấn đề của hồi môn, đôi khi được đồng hóa với một gia sản mà người làm vợ đắc thủ;
• hệ thống các giai cấp xã hội;
• nền văn hóa phi dấn thân và các mối liên kết được giả định không bền vững;
• những hình thức chủ nghĩa nữ quyền thù địch với Giáo Hội;
• những hiện tượng di dân và định nghĩa lại ý niệm gia đình;
• chủ nghĩa đa nguyên tương đối trong quan niệm về hôn nhân;
• ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông trên nền văn hóa đại chúng lên quan niệm về hôn nhân và đời sống gia đình;
• những trào lưu tư tưởng khơi dậy những kiến nghị về lập pháp hạ thấp giá trị về tính trường tồn và chung thủy của hôn nhân;
• hiện tượng ngày càng nhiều những bà mẹ mang thai hộ;
• những kiểu giải thích mới về nhân quyền.
Thế nhưng trước hết ở ngay trong phạm vi Giáo Hội theo nghĩa hẹp, đức tin bị suy giảm hay từ bỏ, nhất là niềm tin vào tính bí tích của hôn nhân và tin vào quyền năng chữa lành của bí tích sám hối. Từ đó, người ta hiểu hàng Giám mục trên thế giới cùng với Đấng kế vị thánh Phêrô (“cum et sub Petro”) khẩn thiết phải quan tâm đến vấn đề khi đối diện với những thách đố này. Thí dụ như người ta chỉ cần nghĩ tới sự kiện này là trong bối cảnh hiện nay có bao nhiêu là trẻ con và các thanh thiếu niên, sinh ra từ những cuộc hôn nhân trái qui tắc, không bao giờ có thể thấy cha mẹ chúng lãnh nhận các bí tích, chúng ta hiểu tính chất cấp thiết như thế nào của các vấn đề được đặt ra bởi các thách đố cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh hiện nay, một hoàn cảnh khá phổ biến khắp nơi trong “ngôi làng toàn cầu”.
Thực tế này có một vang âm đặc biệt trong bầu khí ngày nay đông đảo những con người ở khắp nơi đón nhận những giáo huấn về Lòng Chúa Thương Xót và về Lòng Lân Ái đối với những người bị thương tổn, bị gạt ra bên lề xã hội và cuộc sống. Như vậy, nhiều người rất trông đợi Giáo Hội có những lựa chọn về mục vụ gia đình. Như thế, xem ra là rất cần thiết và khẩn cấp có một suy nghĩ ở cấp Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về chủ đề này, đó như là một biểu lộ của đức ái mục tử đối với đàn chiên được giao phó cho các ngài và đối với toàn thể gia đình nhân loại.”
Suy tư thần học về gia đình
Các đoạn Kinh Thánh về gia đình
“Nét đẹp của sứ điệp Kinh Thánh về gia đình bắt nguồn từ công trình sáng tạo người nam và người nữ, vốn được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,24-31; 2, 4b-25). Được kết hợp bởi một dây liên kết bất khả phân ly, đôi vợ chồng sống vẻ đẹp của tình yêu, của tình phụ tử, tình mẫu tử và phẩm giá cao vời được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Đón nhận hồng ân hoa quả của sự kết hợp vợ chồng, đôi bạn đảm nhận lấy trách nhiệm nuôi nấng và giáo dục các ngôi vị khác, tức là con cái họ, vì tương lai của nhân loại. Qua việc sinh sản, người nam và người nữ, thực thi trong đức tin ơn gọi làm người cộng tác với Thiên Chúa để duy trì tạo thành và làm tăng trưởng gia đình nhân loại.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã giải thích khía cạnh này trong Tông Huấn về Gia Đình Familiaris consortio: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như họa ảnh của Ngài (x. St 1, 26t). Khi vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời mời gọi họ sống cho tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4, 8), Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông (x. Gaudium et spes 12). Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người” (Familiaris Consortio, 11). Kế hoạch đó của Thiên Chúa Tạo Thành, vốn bị tội nguyên tổ làm đảo lộn (x. St 3,1-24), đã được tỏ ra trong lịch sử qua các biến cố thăng trầm của Dân được tuyển chọn cho đến thời viên mãn, khi mà Con Thiên Chúa nhập thể làm người không chỉ xác nhận thánh ý của Thiên Chúa muốn cứu độ, mà nhờ sự cứu chuộc Người còn ban ân sủng để ta có thể vâng phục thánh ý Ngài.
Con Thiên Chúa, Ngôi Lời làm người (x. Ga 1,14) trong cung lòng của Mẹ Đồng Trinh đã sống và lớn lên trong gia đình Nazaret và tham dự tiệc cưới Cana và làm cho nghi lễ ấy được phong phú với “dấu lạ” đầu tiên (x. Ga 2, 1-11). Người hoan hỷ đón nhận sự đón tiếp thân tình từ các môn đệ đầu tiên (x. Mc 1, 29-31; 2, 13-17) và Người an ủi gia đình của các bạn hữu trong cuộc lễ mai táng tại Bêtania (x. Lc 10, 38-42; Ga 11,1-44).
Đức Giêsu Kitô đã tái lập vẻ đẹp của hôn nhân khi đề xướng lại một lần nữa ý định của Thiên Chúa về sự kết hợp hôn nhân mà con người đã loại bỏ vì lòng chai dạ đá, thậm chí có ở ngay giữa truyền thống dân Israel (x. Mt 5, 31-32; 19, 3-12; Mc 10, 1-12; Lc 16, 18). Trở về với thuở ban đầu, Đức Giêsu đã dạy trong hôn nhân đôi bạn phải hợp nhất và chung thủy với nhau, Người từ chối sự rẫy bỏ và ngoại tình.”
Vẻ đẹp của tình yêu con người đã được ca tụng dưới sự linh hứng ở trong sách Diễm Tình Ca, và dây liên kết hôn phối được yêu cầu và bảo vệ bởi các vị Tiên Tri, như Hôsê (x. Hs 1, 2-3, 3) và Malaki (x. Ml 2, 13-16). Chính qua vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu con người đó mà Đức Giêsu khẳng định phẩm giá nguyên thủy của tình yêu hôn nhân giữa người nam và người nữ.”
Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội về gia đình
“Trong cộng đoàn Kitô giáo sơ khai, gia đình cũng xuất hiện như là “Hội Thánh tại gia” (x. GLHTCG 1655). Trong những cái gọi là “Bộ luật gia đình” của các Thư các Tông đồ của Tân Ước, gia đình lớn của thế giới cổ đại được nhìn nhận như là nơi chốn của tình liên đới sâu xa nhất giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa người giầu và người nghèo (x. Ep 5, 21-6, 9; Cl 3, 18-4, 1; 1Tm 2, 8-15; Tt 2, 1-10; 1Pr 2, 13-3, 7; x. Thư gửi Philêmon). Đặc biệt thư gửi tín hữu Ephêsô nhìn nhận tình yêu hôn phối nơi người nam và người nữ là “mầu nhiệm cao cả”, vì làm cho tình yêu của Đức Kitô và Hội Thánh hiện diện trong thế giới (x. Ep 5, 31-32).
Qua dòng thời gian, nhất là thời hiện đại và cho đến ngày nay, Hội Thánh đã không ngừng và ngày càng tiến bộ ban những giáo huấn về gia đình và hôn nhân (vốn là nền tảng của gia đình). Một trong những diễn tả quan trọng nhất đã được Công Đồng Chung Vatican II đề nghị, trong Hiến Chế Mục vụ Gaudium et spes, trong khi đề cập một số vấn đề cấp bách nhất đã dành cả một chương để đề cao phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Giá trị của hôn nhân và gia đình được mô tả là để xây dựng xã hội: “Như thế, gia đình chính là nền tảng của xã hội, vì đó là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau mở rộng kiến thức khôn ngoan, cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội” (GS 52). Đôi vợ chồng tín hữu được mời gọi một cách hết sức mãnh liệt sống linh đạo lấy Đức Kitô làm trung tâm: “ Chính các đôi vợ chồng, được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và được an định trong trật tự hài hòa của các nhân vị, hãy luôn hợp nhất với nhau trong tình yêu thương, đồng tâm hiệp ý, và cùng thánh hóa lẫn nhau, để khi bước theo Đức Kitô là nguyên lý sự sống, giữa bao niềm vui cũng như hy sinh trong ơn gọi và nhờ luôn sống trong một tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của mầu nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và sự sống lại của Người” (GS 52).
“Các Đấng kế vị thánh Phêrô, sau Công Đồng Vatican II, cũng đã làm phong phú thêm, qua Huấn Quyền của các ngài, giáo lý về hôn nhân và gia đình. Đặc biệt Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban những giáo huấn liên quan cả về mặt nguyên tắc lẫn về mặt thực hành qua Thông điệp Humanae vitae. Kế đến, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô trong Tông huấn Familiaris consortio cũng muốn nhấn mạnh khi đưa ra kế hoạch của Thiên Chúa về vấn đề sự thật về nguồn gốc của tình yêu giữa đôi vợ chồng và tình yêu của gia đình: “ ‘Nơi’ duy nhất làm cho sự trao hiến ấy có thể thực hiện được với trọn cả sự thật của nó chính là hôn nhân, nghĩa là khế ước tình yêu hôn phối, hay nói cách khác, là sự chọn lựa có ý thức và tự do nhờ đó mà người nam và người nữ chấp nhận sống chung và chia sẻ tình yêu như chính Thiên Chúa đã muốn (x. GS 48), và cũng chỉ dưới ánh sáng này, sự chọn lựa kia mới bầy tỏ ý nghĩa đích thật của nó. Định chế hôn nhân không phải là một sự can thiệp tùy tiện của xã hội hay công quyền, cũng không phải là sự áp đặt của một mô thức từ bên ngoài; định chế ấy là một đòi hỏi từ bên trong khế ước tình yêu hôn phối, được xác định công khai như khế ước duy nhất và tuyệt đối để đôi bạn nhờ đó có thể sống trung thành trọn vẹn với ý định của Thiên Chúa Tạo Hóa. Sự trung thành này không hề làm giảm tự do của nhân vị, ngược lại còn giúp cho tự do ấy khỏi rơi vào những thái độ chủ quan và các thứ chủ nghĩa tương đối, và làm cho nó được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa Tạo Hóa” (FC 11).
Giáo lý Hội Thánh Công giáo cũng đưa ra những dữ kiện nền tảng sau đây: “Hôn ước mà nhờ đó người nam và người nữ tạo nên một cộng đồng sống chung thân mật và yêu thương, đã được Đấng tạo Hóa thiết lập và sắp xếp theo những quy luật riêng. Tự bản chất, hôn nhân hướng tới thiện ích của đôi phối ngẫu, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Hôn nhân giữa những người đã chịu Phép Rửa được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích [x. Cđ Vatican II, Gaudium et spes, 48; Bộ Giáo Luật, đ.1055,1]” (GLHTCG 1660).
Giáo thuyết của sách Giáo Lý đã xem xét cả về những nguyên tắc thần học lẫn những hành vi luân lý, được trình bày qua hai tiêu đề khác biệt: Bí tích hôn nhân (s. 1601-1658) và Điều răn thứ sáu (s. 2331-2391). Đọc kỹ những phần này của sách Giáo Lý sẽ cho ta một hiểu biết hiện đại về giáo lý đức tin để chống đỡ cho hành động của Hội Thánh trước những thách đố hiện nay. Mục vụ của Hội Thánh được gợi hứng từ chân lý của hôn nhân được nhìn trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng người nam và người nữ và, đã mạc khải trong thời viên mãn nơi Đức Giêsu Tình yêu viên mãn giữa đôi vợ chồng đã được nâng lên hàng bí tích. Hôn nhân kitô giáo, dựa trên cơ sở của sự ưng thuận, còn được phú ban cho những hiệu quả riêng, cả những thiện ích lẫn nghĩa vụ của đôi vợ chồng, tuy nhiên hôn nhân cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của vòng tội lỗi (x. St 3,1-24) vốn có thể gây ra những vết thương sâu đậm và làm hạ cấp cả phẩm giá của chính bí tích.
Gần đây Thông điệp Lumen fidei của đức Giáo hoàng Phanxicô nói về gia đình trong tương quan với đức tin, về điều đó ta nhận thấy rằng “mối liên kết giữa người ta với nhau mạnh mẽ như thế nào khi có Thiên Chúa hiện diện giữa họ” (LF 50). “Môi trường đầu tiên trong đó đức tin chiếu sáng xã hội người ta là gia đình. Tôi tưởng nghĩ trước tiên đến sự kết hợp bền vững giữa người nam và người nữ trong hôn nhân. Hôn phối này sinh ra từ tình yêu của họ cho nhau, là dấu chỉ và là sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, từ sự nhìn nhận và chấp nhận sự khác biệt giới tính, là một thiện hảo nhờ đó đôi phối ngẫu có thể kết hợp với nhau nên một xương một thịt (x. St 2,24) và sinh hạ sự sống mới, biểu lộ sự nhân lành của Đấng Tạo Hóa, sự khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Ngài. Dựa trên nền tảng của tình yêu này, người nam và người nữ mới có thể hứa yêu thương nhau bằng một hành động dấn thân suốt cuộc đời và phản chiếu đức tin trên nhiều phương diện. Hứa yêu thương nhau mãi mãi là điều khả thể khi người ta biết được có một kế hoạch vĩ đại hơn những dự phóng riêng của mình, nó nâng đỡ ta và khiến ta có thể phó dâng cả tương lai mình cho người mình thương yêu” (LF 52). “Đức tin không phải là nơi ẩn náu cho những con người không nhuệ khí, nhưng làm triển nở đời sống. Đức tin giúp ta nhận biết tiếng gọi kỳ diệu, là ơn gọi tình yêu, và nó bảo đảm cho ta tình yêu ấy là đáng cậy tin và đáng cho ta dấn thân đảm nhận lấy, bởi lẽ nó dựa trên sự trung thành của Thiên Chúa, vốn mạnh mẽ hơn những nỗi yếu hèn của ta” (LF 53)”.
Tạm kết: Sử dụng phương pháp Xem – Xét – Làm để tìm giải pháp cho vấn đề gia đình
Thực ra, trước khi các Thượng Hội đồng Giám mục được thành lập và nhóm họp, có bằng chứng cho thấy phương pháp Xem – Xét – Làm đã được sử dụng tại Công đồng Vatican II để soạn thảo Hiến chế Vui mừng và Hi vọng. Từ phương pháp ban đầu chỉ sử dụng cho các nhóm Thanh Sinh Công, Xem – Xét – Làm đã được phổ biến khắp Giáo hội và Hồng y Cardijn được xem là đã dạy cho cả Giáo hội phương pháp cho đến nỗi nhiều người đang vận động xin Giáo hội tuyên phong ngài là “tiến sĩ Hội Thánh”.
Ta biết rằng gia đình, “tế bào sống động của xã hội” là rất quan trọng. Các thách đố về mục vụ gia đình mà Thượng Hội đồng Giám mục ngoại thường về gia đình đang chuẩn bị họp để tìm giải pháp là các vấn đề toàn cầu và rất lớn so với chúng ta. Tuy nhiên, vừa tầm với chúng ta, với tư cách là các “Giáo Hội tại gia”, ta hãy không chỉ tìm hiểu những thách đố và khó khăn mà còn cùng nhau xăn tay áo giải quyết.
Xin các “Giáo hội tại gia” hãy học hỏi và sử dụng phương pháp Xem – Xét – Làm trong việc tìm ra giải pháp cho vấn đề gia đình ngày nay.
Đan Quang Tâm
Tài liệu tham khảo:
1. Đọc các dấu chỉ của thời đại http://www.ghxhcg.com/article.aspx?id=2333
2. Tài liệu chuẩn bị Đại hội chung ngoại thường lần thứ ba của Thượng Hội đồng Giám mục (5-19/10/2014) http://www.hdgmvietnam.org/tai-lieu-chuan-bi-dai-hoi-chung-ngoai-thuong-lan-thu-ba-cua-thuong-hoi-dong-giam-muc-5-%E2%80%93-19102014/5515.115.3.aspx
(*) Do Stefan Gigacz dịch từ tiếng Pháp, ngày 5-10-2010. Xem tại http://www.josephcardijn.com/religious-liberty.
(Nguồn: Tập san Giáo Huấn Xã hội Công giáo số 13)