Bạo lực không thể đặt tên: Tại sao Tây phương im lặng trước làn sóng các hành vi phạm thánh?

Khi các nhà thờ bị xúc phạm, các bức tượng bị đập phá và các Linh mục bị tấn công, Tây phương một thời từng là vùng đất Kitô giáo không biết cách đáp trả thế nào

Screen-Shot-2019-08-07-at-11.53.32

Vào ngày 14 tháng 7, giáo dân thuộc Giáo xứ Saint-Budoc à Porspoder ở Pháp phát hiện vụ việc một kẻ phá hoại hoặc một băng nhóm phá hoại nào đó đã nôn mửa vào các chén đựng nước Thánh trong nhà thờ và ném một cây Thánh giá vào thùng rác.

Vào ngày 26 tháng 7, những kẻ phá hoại đã tạt sơn lên mặt và trang phục của các bức tượng trong quần thể Chặng Đàng Thánh Giá tại Fatima, Bồ Đào Nha.

Vào ngày 28 tháng 7, ba người đàn ông xồng xộc xông vào phòng Thánh của một nhà thờ Công giáo tại Szczecin, Ba Lan, đòi lấy áo lễ để sử dụng trong một đám cưới đồng giới và đánh đập Cha sở của nhà thờ. Đức Tổng Giám mục Stanislaw Gadecki đã mô tả vụ tấn công này là một ví dụ về “các vụ tấn công thù hận thường xuyên hơn đối với các giáo dân và các Linh mục”.

Cơ quan Giám sát tình trạng Bất khoan dung và Phân biệt đối xử với các Kitô hữu, một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Vienna, báo cáo rằng các vụ tấn công chống Kitô giáo và các hành động phá hoại đang có chiều hướng gia tăng trên khắp châu Âu. Chỉ riêng tại Pháp, theo Bộ Nội vụ Pháp, các hành vi chống Kitô giáo đã tăng gấp bốn lần từ năm 2008 đến 2019.

Sự gia tăng bạo lực chống lại người Công giáo đã bị bỏ qua một cách kỳ lạ và bị xem nhẹ – không chỉ bởi giới truyền thông, mà còn bởi chính người Công giáo. Nhiều người Công giáo rất dễ miễn cưỡng để phàn nàn về điều mà ĐTC Phanxicô đã gọi là “cuộc đàn áp lịch thiệp” khi mà các anh chị em của họ ở nước ngoài đang bị ISIS chặt đầu. Các nhà lãnh đạo Công giáo cũng nhấn mạnh một cách đúng đắn rằng họ chịu đau khổ ít nghiêm trọng hơn một số nhóm tôn giáo khác – đáng chú ý nhất là các tín hữu Do Thái, những người cũng phải đối mặt với tình trạng gia tăng bạo lực.

Những người Công giáo khác sợ rằng việc thu hút sự chú ý đối với các vụ tấn công này sẽ khuyến khích việc đổ dồn tất cả mọi tội lỗi lên đầu các tín đồ Hồi giáo, mặc dù thực tế là hầu hết các hành vi này dường như không được thực hiện bởi những người Hồi giáo. Các biểu tượng của Satan chẳng hạn như ba con số “666”, hay các khẩu hiệu về tự do tình dục (sexual liberation) là một đặc điểm tái diễn định kỳ của các vụ tấn công này. Đây không phải là những biểu tượng được ISIS sử dụng.

Những lo ngại chính đáng này đã dẫn đến một mô hình đáng tiếc về sự tối thiểu hóa phí tổn. “Chúng tôi áp dụng một thái độ hợp lý. Chúng tôi không muốn trình bày một bài diễn văn về cuộc đàn áp. Chúng tôi không muốn phàn nàn… Chúng tôi không phải là nạn nhân của chủ nghĩa ‘bài Công giáo’”, Đức Tổng Giám mục Georges Pontier, người đứng đầu Hội đồng Giám mục Pháp, phát biểu với tạp chí Le Point. “Trong lịch sử của mình, Do Thái giáo đã phải chiến đấu trong một cuộc đấu tranh liên tục chống lại các nhóm bài Do Thái. Chúng ta, người Công giáo ở Pháp hiện nay không phải đối mặt với tình trạng bạo lực như vậy mỗi ngày!”.

Nỗ lực nhằm giảm thiểu bạo lực chống Công giáo có thể có ý hướng tốt, nhưng người ta nghi ngờ rằng chúng đang mang lại hiệu quả mong muốn. Như một số học giả đã lưu ý, một trong những lý do chính khiến giới ưu tú Tây phương bỏ qua cuộc đàn áp Kitô hữu trên khắp thế giới đó chính là việc họ coi các Kitô hữu như là một nhóm đặc quyền. Việc làm nổi bật sự gia tăng bạo lực chống lại các Kitô hữu ở phương Tây là cách đơn giản nhất để phản đối giả định này.

Nó cũng có vẻ như không có ích để ngăn chặn bạo lực chống Công giáo chống lại bạo lực chống Do Thái, như thể việc thừa nhận cái này cần phải bỏ qua cái kia. Kể từ Công đồng Vatican II, người Công giáo đã tìm cách nhấn mạnh những điểm chung với người Do Thái. Ngày nay, hai tôn giáo quả thực không may phải chia sẻ sự thù hận của một xã hội vốn không bằng lòng trước những đòi hỏi của tôn giáo, truyền thống và cộng đồng.

Một trong những điều tốt đẹp có thể được rút ra từ các vụ tấn công nhắm vào Kitô giáo đó chính là sự đánh giá cao đối với những gì mà người Công giáo và người Do Thái có điểm chung với nhau. Điều đáng chú ý về vấn đề này đó chính là người Công giáo đã bị tấn công vì luân lý tính dục mà họ chia sẻ với người Do Thái. Việc làm ô uế các bức tượng tại Fatima chỉ là một ví dụ không đáng kể. Vác hình vẽ bậy về tình dục, việc đập phá hay vẽ bậy các bức tượng Đức Mẹ cùng với các hành vi tương tự khác là hết sức phổ biến trong việc xúc phạm các nhà thờ Công giáo.

Một dấu hiệu cho thấy chúng ta còn cách bao xa với việc ước lượng với các hành vi chống Kitô giáo đó chính là thực tế rằng chúng ta không còn từ ngữ nào thích để mô tả các hành động xúc phạm này. Các hành vi gây hấn đối với Hồi giáo và Do Thái giáo có thể được mô tả tức thì bằng cách sử dụng các thuật ngữ được hiểu rộng rãi. Không có thuật ngữ nào như vậy tồn tại đối với các vụ tấn công nhằm vào các Kitô hữu. Nhiều nhà trí thức và các nhà hoạt động đã đề xuất các thuật ngữ chẳng như “Cathophobic, Christianophobic và Christophobic” (nghĩa là bài Kitô giáo hay bài Công giáo), nhưng không có gợi ý nào nhận được sự chấp thuận rộng rãi. Xã hội của chúng ta có một hình thức của việc không thể sử dụng ngôn ngữ để nói về các hành vi gây hấn nhắm vào các Kitô hữu. Đó  chính là bạo lực không thể được đặt tên.

Một phần của vấn đề nằm ở vị trí cư trú độc nhất về mặt xã hội học của người Công giáo ở phương Tây. Văn hóa tự do của chúng ta có vốn từ vựng được biểu lộ rộng rãi về việc bảo vệ quyền của các nhóm thiểu số. Nhưng không có bộ thuật ngữ nào để mô tả bạo lực chống lại đức tin mà theo nhiều cách định nghĩa phương Tây, và đó vẫn là niềm tin đa số ở nhiều quốc gia phương Tây.

Do vai trò cấu thành độc nhất mà Kitô giáo Công giáo nắm giữ trong đời sống phương Tây, việc mô tả nó như một đức tin không phổ biến khác sẽ luôn là điều khó xử. Ngay cả ở các quốc gia Tin Lành, nơi mà Công giáo trở thành một nhóm thiểu số bị áp bức, Công giáo vẫn được xác định một cách rộng rãi với một quá khứ bị áp bức. Khi các cơ quan tôn giáo khác đã loại bỏ sự phản đối của Kitô giáo toàn cầu trước đây đối với vấn đề tránh thai và phá thai, Công giáo vẫn tiếp tục giữ vững lập trường. Điều này làm cho nó trở thành một biểu tượng của truyền thống và quyền lực thậm chí ngay cả trong các xã hội mà từ lâu đã rũ bỏ quyền lực của nó.

Một ví dụ gần đây về điều này xảy ra ở đỉnh điểm của cuộc tranh luận gần đây của Hoa Kỳ về luật phá thai. Khi các quốc gia chủ yếu theo Tin Lành chẳng hạn như Alabama và Georgia (tương ứng 77% và 70% theo Tin lành) đã vượt qua các hạn chế về vấn đề phá thai, Giáo hội Công giáo trở thành mục tiêu của sự phẫn nộ. Vào ngày 19 tháng 5, các cánh cửa tại Giáo xứ Đức Bà Lộ Đức ở thị trấn đại học giàu có Swarthmore, PA, bị người tat reo những biểu ngữ với dòng chữ “Quý vị không có quyền quyết định việc người khác sống thế nào, #ProChoice, Ủng hộ phá thai”.

Bởi vì phương Tây đã từng được định nghĩa bởi sự đón nhận của nó đối với Giáo hội Công giáo và giờ đây theo nhiều cách thức khác nhau, được định nghĩa bằng cách từ chối nó, việc đạt được một sự đối xử công bằng và trung lập đối với Công giáo hầu như là không thể. Xã hội phương Tây nhìn vào Giáo hội như cách người ta có thể nhìn vào người yêu cũ của mình. Với lịch sử rối rắm của họ, khả năng duy nhất trong tương lai đó chính là nỗi ám ảnh nhức nhối hoặc sự hồi sinh của một sự quyến luyến mạnh mẽ. Không có gì khó xảy ra hơn mối quan hệ tình cờ mà người ta có thể tận hưởng với một thứ thân quen mới.

JHH Weiler, một học giả về pháp lý người Do Thái, người bảo vệ tập quán của Ý trong việc treo Thánh giá trong các tòa nhà công cộng trước Tòa án Nhân quyền Châu Âu, đã kêu gọi châu Âu vượt qua thái độ “bài Kitô giáo” (Christophobia) của mình bằng cách thừa nhận bản sắc Kitô giáo của nó. Trong một cuốn sách ngắn có nhan đề “Một Châu Âu Kitô giáo: Một Tiểu luận tham dò” (‘A Christian Europe: An Exploratory Essay’), học giả Weiler đã mô tả một châu Âu như vậy như sau:

“Đây là một châu Âu, trong khi tôn vinh di sản cao quý của chủ nghĩa nhân văn của Thời kỳ Khai sáng, cũng từ bỏ thái độ ‘bài Kitô giáo’ (Christophobia) của mình và không sợ hãi cũng không bối rối khi thừa nhận rằng Kitô giáo là một trong những yếu tố trọng tâm trong sự phát triển của nền văn minh độc đáo của nó. Cuối cùng, đó chính là một châu Âu, trong cuộc đàm luận công khai về quá khứ và tương lai của chính mình, đã phục hồi tất cả sự phong phú vốn có thể xuất phát từ việc đối đầu với một trong hai truyền thống về tinh thần và tâm linh quan trọng của nó”.

Đức Nguyên Giáo Hoàng Benedict XVI đã đưa ra lời kêu gọi tương tự trong Sứ điệp năm 2011 của mình nhân Ngày Thế giới Hòa bình. Ngài than phiền về “thái độ thù địch và sự định kiến đối với các Kitô hữu” và đồng thời thúc giục châu Âu “hòa giải với cội rễ Kitô giáo của chính mình”:

“Tôi cũng bày tỏ hy vọng rằng ở phương Tây và đặc biệt là ở châu Âu, sẽ không còn thái độ thù địch và sự định kiến đối với các Kitô hữu bởi vì họ đã quyết tâm định hướng cuộc sống của họ theo cách thúc phù hợp với các giá trị và nguyên tắc được trình bày trong Tin Mừng. Chớ gì, thay vào đó, châu Âu có thể được hòa giải với cội rễ Kitô giáo của chính mình, vốn chính là nền tảng để hiểu được vai trò quá khứ, hiện tại và tương lai của nó  trong lịch sử; bằng cách này, nó sẽ có thể trải nghiệm công lý, sự hòa hợp và hòa bình bằng cách nuôi dưỡng một cuộc đối thoại chân thành với tất cả mọi dân tộc”.

Việc đối đầu với các hành vi chống Công giáo đòi hỏi một cách thức hoạt động khác so với việc đối đầu với bạo lực chống lại các tín ngưỡng khác. Vấn đề không phải là sự hận thù đối với người khác, mà là sự hận thù đối với chính mình.  Đó chính là một sự từ khước đối với di sản của chính mình, một nỗ lực để từ chối bản sắc của riêng mình. Như học giả Weiler và nguyên Giáo Hoàng Benedict đều đã nhận thấy một cách hết sức rõ ràng, Kitô giáo không đòi hỏi sự khoan dung của phương Tây; nó đòi hỏi sự trung thành của nó. Trừ khi Châu Âu nhận ra rằng sự khoan dung đối với các tôn giáo khác không biện minh cho việc phủ nhận bản sắc Kitô giáo của Châu Âu, các hành vi chống Kitô giáo có khả năng gia tăng, trong khi bị cố tình phớt lờ bởi những người có ý định phàn nàn về những định kiến.

Matthew Schmitz

*** Matthew Schmitz là Biên tập viên lâu năm của tờ First Things

Minh Tuệ (theo Catholic Herald)

Bài liên quan

Bài mới

Facebook

Youtube

Liên kết